Sơn Nam

HỒI KÝ SƠN NAM - tập 1

TỪ U MINH ÐẾN CẦN THƠ



Chương 3



Sau khi thi đậu vào trường công lập Cần Thơ, tôi phải về U Minh. Khó xử cho tôi và cũng là sự hoang mang cho cha mẹ.Tôi được đứng vào hạng 19 hoặc 20 gì đó, qua cuộc thi tuyển. Ðược học bổng hay không? Trên lý thuyết,chỉ 10 người đứng đầu hưởng học bổng, thêm đôi người được phân nữa học bổng. Như vậy là đã thua cuộc.Vài người lớn tuổi bảo rằng còn điều tra lại, những đứa đậu cao có thể là con nhà giàu 12 hoặc 13 thì có thể hy vọng, nhưng hạng 20 thì quá xa. Ðành trở về quê chờ xem, cho khỏi tốn tiền ở trọ. Cha mẹ cho tôi học để lấy bằng cấp làm sinh kế, chớ đâu phải học để bàn chuyện chính trị, hoặc quan sát “thiên văn địa lý”. Dè đâu,hơn tháng sau, nhà trường gởi về quê tôi cư ngụ một tập hồ sơ, hỏi về gia cảnh giàu nghèo và đồng thời yêu cầu ngày tựu trường, tôi phải chuẩn bị sẵn 6 bộ quần áo bà ba trắng,mền, 2 bộ Âu phục,2 cà vạt,2 đôi giày bố kiểu Bata, 4 khăn lau mặt, 6 khăn mù soa,vân vân...thêm nào bàn chải đánh răng, khăn tắm.Thật là quá mức,tìm đâu ra tiền? Bấy giờ, một giạ lúa (20 kílô)tương đương một mét vải dệt với bông vải;nhập từ Singapo. Cái hồ sơ học bổng của tôi gởi về quận An Biên đã gây dư luận tốt, các viên thư ký gặp hương chức làng cho rằng tôi là một “nhân tài hiếm có” của vùng U Minh nầy. Tôi nhớ mãi bầu không khí của chợ Cần Thơ sống cực mà làm mở rộng tầm nhìn. Lại xảy ra chuyện bực dọc cho cha mẹ. Sau khi đi tận tỉnh lỵ để dọ hỏi giá cả của hai đôi giày bố trắng,thêm cái rương,cái mền,cha tôi về,không chần chừ gì cả :

 -Phải đem cầm bộ lư và chân đèn trên bàn thờ ông bà ! Sau nầy chuộc lại, tiền lời khá rẻ vì là tiệm của nhà nước lập ra.

Bà con dòng họ nhốn nháo lên. Ðó là món thờ cúng do ông nội tôi đã mất, để lại.Cha tôi là người giữ phần hương hoả, chớ không được xem đó là của riêng để đem cầm cố. Cha tôi,từ lâu được anh em uỷ quyền giữ hương hoả, cứ lặng thinh, hồi lâu mới trả lời:
  -Ðâu phải tôi uống rượu, cờ bạc. Ðây là người dòng họ được hưởng của ông bà. Con tôi là đứa cháu nội.Chẳng lẽ giữ bộ lư hương nầy để rồi con cháu phải sống với cây tràm,cây trâm bầu,lặn hụp bắt cá lóc?Hơn nữa bà con mình có nghe gì chưa?Bộ lư ở đình làng X mới đây bị ăn trộm rinh mất.Chẳng lẽ dân làng đó bất hiếu với ông thần. Thời buổi nầy rồi !
 Mấy tiếng “thời buổi nầy rồ”mà tôi chẳng rõ hết nghĩa gợi lại chuyện qua sông Hậu, trên phà và lời của bạn bè ở Cần Thơ. Chẳng lẽ ba tôi lúc nầy lại tham gia vào chuyện “quốc sự”,nhận ra một viễn cảnh nào đó, khác hẳn với lúc thực dân còn mạnh mà giấc mơ của đại đa số thanh niên trung lưu là đậu bằng cấp để làm công chức? Tôi chống chiếc xuồng nhỏ,quanh khu rừng tràm, nói là dạo quanh nhưng kỳ thật là du ngọan theo bề dài khu rừng, gọi  “rừng cấm”vì nhà nước đang bảo quản vì “quyền lợi nhà nước”.Rừng có nhiều con kinh nhỏ chảy xuyên qua, đi quanh về tắt,rải rác nhiều căn chòi của những người mang lý lịch mơ hồ từ phía Cần Thơ,Long Xuyên đến tạm trú để bắt cá, đốn củi lậu thuế.Nơi ven rừng phía Nam,chổ cây xoài rừng và đìa lạn,hiểu là ao nuôi cá, lâu ngày không nạo vét lên đã cạn,hai ba chàng trai đang đào xới mô đất bỗng gọi tôi:

 -Cậu ba, xin chào cậu ba!

Tôi đến gần, họ là người chòm xóm, sống với nghề bắt rắn, bắt trăn. Họ khen ngợi tôi đã đi học xa,tận Cần Thơ,làm hãnh diện cho khu rừng nầy.Tôi hỏi thì họ rỉ tai:

 -Bòn vàng của vua chúa thời xưa để lại.Hy vọng tràn trề

Quả thật,họ đã khai quật mộ mô đất khá cao, cuốc xẻng dựng vào gốc cây xoài.Nhìn xuống hồ,thấy nước đen lỏng bỏng, đất vừa xới lên còn xông mùi ẩm ướt,nồng nặc.Họ giải thích rằng những đất cao ráo khác thường ở rừng nầy thường là mồ mã của người vô danh từ ngàn năm ,nào Chà Và,Mã Lai,Khơme,hoặc Việt Nam.Bằng cớ là dưới lỗ hổng mà họ vừa đào thấy có mớ tóc dài và bầy cá trê vây quanh.Cá trê ăn thịt người.Hoặc là tóc của con người, chôn lâu đời lại hóa ra cá trê như lời đồn đại.

Tôi thấy chưa tin, một cậu nói :

 -Cậu ba đi học xa xứ, biết nhiều chuyện đời, vậy xin hỏi cậu biết Thiên linh chuỗi?

Dĩ nhiên,tôi biết. Lâu lắm rồi,thỉnh thoảng người nào đó nhận được lá thư,ghi vài câu cách ngôn,hoặc chuyện thất thiệt nào đó.Người nhận được phải sao y bản chánh khoảng 20 bản,rồi gởi cho người quen hoặc chưa quen.Cuối thư,bảo là ai không chịu sao y thì bị Thượng đế trừng phạt,còn như sao y thì sẽ được hưởng phước,tai qua nạn khỏi.

Tôi đáp :

 -Thiên linh chuỗi mà người ta gởi đến nói chuyện gì?

Chàng trai nọ, nói giọng thật thà

 -Không biết đọc, không nhà cửa thì ai gởi cho,tôi không được biết.Một người trong xóm nói rằng trong đó chỉ ghi một câu thôi: “Ở núi Bà Ðen,Tây Ninh,ngày mùng 7 tháng giêng,có một con heo bị trời đánh, hoá ra cục đá. “Ai tin thì tin, không tin thì thôi

Chuyện đào đất tìm kho tàng, mớ tóc trong quan tài lâu ngày hoá ra cá trê,con heo hoá đá...phải chăng là kiểu loan tin của nhóm nào đó.Tôi cười thầm.Về nhà,chợt nghe tiếng heo kêu eng éc, đúng là con heo tơ mà mẹ tôi đang nuôi đã bị nhốt trong cái giỏ tre, người lái heo khiêng nhẹ nhàng, mẹ tôi đi theo sau, lấy tay chùi nước mắt.

Ghe heo đã đi, tôi ngậm ngùi hỏi :

-Má buồn làm chi dữ vậy?

-Thà rằng nuôi đúng tạ mà bán, ít buồn hơn.Con heo nầy mới bốn tháng, đang mập, nuôi thêm

 vài tháng nữa thì giá cao hơn.Tội nghiệp nó cũng tội nghiệp cho má.

Phải bán con heo tơ để lo đồ đạc cho tôi đi học, gần ngày tựu trường rồi...Một hôm,ba tôi ngồi hút thuốc một mình tới nữa khuya.Tôi thức giấc, đến uống nước trà. Ba tôi nói,bình thản:
  -Ba thấy cuộc đời không phải như vầy hoài.Tụi Nhật Bổn lên phía U Minh Thượng,xa lắm, đưa tiền cho dân phá rừng để trồng đu đủ dầu, nói rằng để lấy hột đu đủ chế biến dầu nhớt dùng cho máy bay. Ba hồ nghi tụi nó dọ thám rồi làm cái sân máy bay.Nghe nói hai ba thằng lính Nhật, thêm đứa làm quan Hai đi tới đi li,chụp hình.Tụi mật thám của Tây đi theo, xua đuổi không cho dân mình lại gần.

Nghe nói còn nhiều người đi theo nó,mặt mày hung tợn lắm.Nó hưá sẽ đưa tiền để phá rừng.
Nên đi Cần Thơ gấp.Tôi mong đến ngày tựu trường.Cha tôi ra tận chợ Rạch Giá,vác cái rương bằng mây,sợ tốn tiền đi xe kéo.Thái độ tư tin khiến tôi mạnh dạn hơn,dầu sao đi nữa;mình cũng đã ở Cần Thơ được gần một năm rồi.Ba tôi hãnh diện, nói chuyện với số học sinh cùng lên xe đò.Nhiều năm,cả tỉnh Rạch Giá không một ai đậu vào trường công,huống chi lại được học bổng ! Phần lớn học sinh cùng đi chuyến xe với tôi là con nhà khá giả, họ học trường tư thục.Tỉnh Hà Tiên nhỏ bé,nhiều năm liên tục không một đứa nào đậu vào trường công.

Ðến Cần Thơ ngủ tại nhà mà tôi đã trọ, tôi vẫn chưa yên tâm. Ðến hôm sau, khi nạp cái hồ sơ được học bổng cho văn phòng, tôi như bị sét đánh.Chỉ được cấp phân nữa học bổng mà thôi ! Sáng, tự lo ăn sáng, đến trường vào lớp, trưa được ở lại ăn cơm,tan buổi học chiều là phải về nhà ở ngoài.Viên thư ký của nhà trường mĩm cười :

 -Ráng học, rồi sẽ được ở nội trú “trăm phần trăm”.Mấy đứa đậu cao lắm khi là con nhà giàu, không nhận chế độ học bổng. Chừng đó sẽ “đôn” lên.Chờ 6 tháng.

Học vời nhiều giáo sư, chia ra bộ môn rõ rệt, bài giảng toàn bằng tiếng Pháp.Một hai “bà đầm” trực tiếp dạy Pháp văn cho mấy lớp dệ tam, đệ tứ, hai năm chót chuẩn bị thi lấy bằng Trung học, gọi nôm na là bằng “đíp lôm”. Khôi hài nhất là giờ ôn bài tự do,lại cấm đọc sách chữ việt,hễ muốn thì phải trình với vị giáo sư Việt văn để xin duyệt cho phép đọc.Tôi hiểu là muốn cấm các tựa sách mang tính chính trị, trực tiếp hoặc gián tiếp chống thực dân.Thỉnh thoảng,các vị giám thị cũng bắt gặp vài quyển,cảnh cáo hoặc đưa lên hội đồng kỷ luật,học sinh có thể bị đuổi, mặc dầu các sách ấy đã bán tự do ở hiệu sách ngoài chợ.

Học được một tháng,tôi được vị giáo sư Pháp văn gọi lên bục giảng để khen ngợi về bài luận văn, đại khái lấy đầu đề là Mùa gặt lúa.Tuần trước vị nầy khuyên học sinh nên tả thật,ghi lại sự kiện và tình cảm thật.Tôi đã tả vụ gặt lúa ở ven rừng, gần nhà, hồi ở U Minh. Phá rừng cấy lúa,vì vậy trong thưả ruộng còn lởm chởm những gốc cây chừa lại,cao khoảng 50 xăngtimét, trên đó sẽ treo những bó lúa vừa gặt xong gom nhóp lại. Chim trời bay lượn, đủ loại vì gần biển dưới chân người gặt thỉnh thoảng gặp rùa, rắn, lươn đang cựa quậy. Muỗi vo ve, mặc dầu đang giữ ban ngày. Người gặt đứng cô đơn,rải rác phía xa,vài người cũng gặt với tiếng ca Vọng cổ nghe thoáng hơi buồn.Tùy ý,ai thấy mệt thì về. Cảnh tượng nầy khác với ruộng vùng Cần Thơ, nơi dân đông, năm bảy người gom lại, đứng gần mà gặt, trông vui vẻ, tha hồ trò chuyện,kiểu vần công, đổi công.

Ðể kết luận tôi cho người làm ruộng ở xứ U Minh là những “anh hùng vô danh”.
 

Về sử học, dạy lịch sử Pháp và Việt, nhờ đọc sách báo ngoài lớp, tôi ghi vào bài học những tình tiết rườm rà,vị giắo sư dạy sử ngạc nhiên,khen ngợi. Vị nầy đáng kính, ông Nguyễn Thượng Tư.Lúc giảng bài về Nguyễn Tri Phương nhịn ăn, không chịu cho thực dân băng bó thương tích, ông như rơm rớm nước mắt. Cũng như trường hợp Hoàng Diệu thắt cổ tự tử.
 Buổi chiều,học sinh được giải trí, đá banh (bóng) trong sân to rộng của nhà trường,lại còn nơi dành cho bóng chuyền,bóng rổ. Nhưng một số đông thích âm nhạc, tập đàn hát những bản ăn Pháp phần lớn ca ngợi tình yêu trai gái của nhạc sĩ đang ăn khách là Tino Rossi. Nhiều học sinh dạo đàn măngđôlin hoặc ghita.Trong khi ấy, nhiều cậu mang đàn ghita, kiểu phím lõm để đàn Vọng cổ,có bạn tâm giao ca nghe mùi mẫn.Tên tổng giám thị, người Ấn Ðộ quốc tịch Pháp nổi danh nghiêm khắc đứng nghe, trên nguyên tắc,hắn không được quyền cấm, nhưng lời lẽ bài hát nói lên những gì hắn không hiểu;Hắn cười mỉa mai,cho đó là thứ nhạc du dương lạc hậu,yêu cầu người chơi dịch ra tiếng Pháp vài đoạn. Một học sinh nghiêm giọng :

-Ðây là nhạc dân tộc,lời lẽ lãng mạn,không dịch được rõ nghĩa vì Ðông phương khác với Tây phương.Thí dụ như Tây phương ôm nhau khiêu vũ trước đám đông, còn Ðông phương thì nhìn mây bay,nghe gío thổi mà nhớ ông bà xưa, đời vua Tự Ðức, khi chưa mất nước

Tên giám thị hơi giận

 -Nên cẩn thận!

 Anh bạn đang đàn Vọng cổ trợn mắt :

 -Cha tôi là đại điền chủ,là hội đồng quản hạt của nhà nước thuộc địa Pháp, được phép sắm súng đề phòng ăn cướp, có huy chương canh nông của Pháp, huy chương Vàng của vua Bảo Ðại,huy chương Ðồng của vua Sovath Monivong nước Cam bốt.

Khi tên giám thị bẽn lẽn đi khuất, anh bạn cười giòn

 -Nó là thằng dân mất nước, ở cảng Bom Bay, Ấn Ðộ, nịnh Tây rồi qua đây làm trời.Tao nói dóc

cho nó ngán chơi.

Ngồi chơi buổi chiều,tôi còn nghe chuyện vài người bạn ở lớp trên đang bí mật ra báo,làm báo bí mật thì nhất định bị đuổi.Mấy anh học cấp trên chuyền báo cho nhau,in xu xoa (thạch),chưa dám cho tụi con nít mới vô trường như bọn tôi xem. Sợ đổ bể.

Cuối niên học, được cấp học bổng trọn vẹn, tôi về quê,cha mẹ vui mừng khôn xiết.Quần áo khỏi sắm thêm.Tuy khiêm tốn nhưng mẹ tôi hăng hái bơi xuồng, xuống xóm đình,nơi quần cư quan trọng nhất của làng, khoe rằng tôi được học bổng, vài năm nữa nhất định sẽ được làm thấy thông,thầy ký.Về nhà,  má tôi nói trong bữa ăn

-Nó còn nhỏ tuổi, đang đi học vậy mà bà hương chủ nói giởn rằng nếu đồng ý thì bà sẽ gả con gái cho.

Ba tôi cứ khẳng định rằng phải học “ba cái chữ nghĩa” rồi tính sau. Cỡ nầy ở đâu coi cũng “nhộn”
Nhộn là tiếng mơ hồ, khó hiểu, nhưng tôi hiểu rằng “nhộn” trong bối cảnh xã hội bấy giờ là sắp xảy ra biến cố, cũng như đời sống đang yên lành chợt xảy ra dịch tễ,như thổ tả, giết chục người trong đôi ngày, không thầy nào trị được. Ðến ven rừng dạo chơi,gặp mấy đứa thanh niên lớn tuổi hơn mời uống rượu đế,chúng nó bảo với tôi :

 -Sớm muộn gì, tụi nầy cũng...làm ăn cướp!

 -Súng đạn đâu? Coi chừng Tây bắt

  -Con ông cai tổng B. đứng ra lập đảng cướp, ai dám đụng. Ðó là cậu Bảy, tính chuyện ăn cướp “làm nghiã hiệp”, lấy tài sản nhà giàu chia cho nhà nghèo... Ông cai tổng có súng, bọn lính kín tới đây muốn bắt ai cũng phải hỏi ổng. Ổng đi Sài Gòn thăm bà con rồi trở về,mặt mày nhăn nhó,gom vàng  bạc,lớp thì đem chôn sau vườn dưà,lớp thì gởi ngoài chợ Rạch Giá.Cậu Bảy,con trai ông cai tổng đã lanh tay ăn cắp khẩu súng trường của nhà nước phát cho,giấu trên ngọn cây dừa. Ði theo cậu Bảy làm ăn cướp thì ai dám đụng tới mình.Vả lại cậu Bảy thề chỉ ăn cướp ở quận khác chớ tuyệt nhiên không khuấy phá làng mình. Ðã đánh một trận rồi, bên Giồng Riềng.Tụi nầy ăn nhậu no nê, say sưa be bét,muốn mang bịnh.

Không bao giờ đời nay mà còn những người khờ khạo đi làm nghĩa hiệp. Bằng cớ là không nghe bọn trẻ nầy nói tài sản cướp giựt được đã đem phân phát cho ai.

Về nhà,tôi đọc mấy tờ báo rách,dường như là Tiểu thuyết thứ Bảy hoặc báo chí chi đó lượm lặt từ Cần Thơ.Tôi thích và khâm phục tài năng của nhà văn Nguy-en Hồng,trong truyện ngắn nọ mô tả cảnh gia đình nghèo,ban chiều mẹ đem cái nồi ra,rang mấy hột bắp,bắp nổ tung vỏ trắng như bông,mẹ con quây quần lại mà ăn,vui vẻ lạ thường.Lại còn chuyện anh đánh xe ngựa chở khách,vất vả nhưng lạc quan,hành khách ít,nhưng đành lên xe,anh quất roi,xe lăn bánh trong cảnh hoáng hôn, “Chuyến xe cuối cùng về Ðồ Sơn.”Tiếp cận với truyện Kiều, đọc qua:
 
 -
Rằng nghe nổi trên cầm đài,

Nước non luống những lắng tai Chung kỳ

Ðơn giản mà sâu sắc, 14 chữ vượt lên cao, đến nơi cao nhất của tâm linh,bao quát cả không gian, thời gian.

Câu thơ thì hay, nhưng không khuây khỏa được tâm hồn tôi.Linh tính như báo trước một cơn giông tố sắp đến, một cơn giông tố cần thiết.Phải tìm một trật tự mới kiểu khác.Rừng U Minh mà ông bà cư gụ bấy lâu nay chẳng lẽ cứ mờ mịt,buổi chiều, ăn cơm tạm no rồi thì đốt lên bếp un cho tan muỗi, chờ lát nữa ngủ.Thiếu thông tin chính xác,thiếu sách báo,nếu có thì chẳng mấy ai đọc,chưa nói đến hiểu,muốn hiểu ít ra cũng biết mơ hồ về bản đồ thế giới.Giá sinh hoạt mỗi lúc mỗi cao, thêm đồng tiền càng ngày càng khó kiếm khiến ai nấy lo quanh quẩn. Ðến như dịch sốt rét đã giảm từ lâu lại bộc phát, thuốc kí ninh nếu dám mua với giá cao cũng chẳng thấy bán.

Ngày tựu trường, tôi không tha thiết cho lắm,các giáo sư như mặc xuề xòa hơn,thích nói chuyện, đôi khi, đến giờ dạy mà vẫn còn nói chuyện, riêng với bạn đồng nghiệp.

Tham ông quản Bồ, ông mừng rỡ lắm, cứ khuyên

-Thuận lợi để chống thực dân,nhưng ngày càng khó.Em còn nhỏ quá,chưa làm gì đợc.Thấy dễ mà khó lắm

Năm ấy, bỗng dưng mặt bằng của trường trung học Cần Thơ bị giải tỏa hết phân nửa,dời qua dãy nhà dành cho trường tiểu học nữ. Phần lớn trường trung học dành làm trại lính tập, hiểu là lính chính qui người Việt, đủ súng đạn,tập dượt đàng hoàng,do vài sĩ quan Pháp và một số sĩ quan người Việt (thường mang quốc tịch Pháp chỉ huy ).Hằng tuần,họ diễu hành một buổi sáng,trông uy nghi lắm.Một sĩ quan Pháp cấp tá cỡi ngựa, cầm gươm dẫn đầu, lính đi rập ràng theo tiếng kèn đồng.Theo sau,có vài khẩu trọng pháo.Quả là thực dân Pháp còn mạnh,họ muốn thị uy tại Cần Thơ, thủ phủ miền Tây Nam Bộ.Học sinh mãi mê nhìn xem diễu binh, quên chuyện học hành.

Nữ học sinh tiểu học (ở ngoại trú )học ở dãy sát bên. Hôm nọ, học sinh tiểu học ra chơi xếp hàng hai, trông thơ mộng lắm. Ði chân đất, áo bà ba trắng, quần đen.Vừa đi ra khỏi lớp,vừa đọc bài thơ rập ràng, ngân nga như bài dân ca :

Gió mây đuổi giấc mơ màng,

Tỉnh ra thấy ánh trăng vàng bên chăn.

Trước cửa sổ đầy sân những bóng,

Cành lá đen lay động dật dờ,

Một cơn gió vội vàng qua,

Hương bay ngào ngạt mấy tờ chuối xanh.

Gió lay động bức mành vắng vẻ,

Muỗi bên màn se sẽ than thân

Sâu tường rủ rỉ âm thầm,

Nối muôn đêm, một tiếng ân hận dài

Dế chân cỏ xiết mài bóng tối,

Bờ lau xa quốc gọi buồn theo

Trời khuya rạng rỡ, đìu hiu

Thoáng nghe lọt tiếng sáo diều trong trăng!

Nghe hàng chục lần,tôi nhớ mãi, mỗi lần nghe càng thấy ấm áp,tự tin.Mô tả cảnh đồng quê đâu ở miền đồng bằng sông Hồng nhưng quá thân thuộc,không xa lạ cho lắm mà lại giới thiệu được bối cảnh thơ mộng của Việt Nam cũng như của Ðông Nam Á nhiệt đới.Có mặt đủ loại côn trùng vô ích như muỗi ,dế ,ssâu.Cách diễn đạt như khó hiểu “sâu tường”, “dế siết mài bóng tối” nhưng cần gì thắc mắc để phân tích, hơi thở của thơ bàng bạc trong môi trường, ăn trực tiếp qua da thịt,vào xương máu,buồn buồn như nổi “ân hận dài”. Các cô học sinh,giáo viên vào giờ ấy chắc không lý luận như tôi để hiểu,thả hồn vào thơ Việt Nam là đủ rồi. Ðến nay tôi còn nhớ,chắc sai lệch vài chữ nhưng các cô đã 70 tuổi hơn,nếu còn sống chắc cũng nhớ thấp thoáng như tàu lá chuối khô còn vương vấn mấy giọt mưa đầu mùa,lúc còn xanh non.Sau nầy, được biết là thơ của Thế Lữ, trong Mấy vần thơ. Dạo ấy để mị dân, Nha Học chính Ðông Pháp bày việc cải cách chương trình Việt văn. Nhưng trễ quá rồi, cũng như để tác động chính trị cho dân Việt và giới học sinh, đặt thêm môn học Văn hoá Việt Nam, dịp cho học giả Ðào Duy Anh biên soạn quyển Việt Nam văn hoá sử cương, đến nay vẫn còn gia trị,về cơ bản.

Vào lớp, tôi ngồi học cầm chừng, cứ chờ ngày chủ nhật xin phép ra chơi, ăn cơm ngoài cho đến 8 giờ tối mới vào trường. Ði thăm ông Bảy Ngân dưới phà, rồi thăm ông quản Bồ người bị quản thúc.Dường như vì bệnh già, ông tránh tiếp chuyện một cách khó hiểu.

Lại đọc báo lén, trong trường cấm đọc báo. Hay tin cụ Phan Bội Châu đã mất,tin tức đăng vài hàng nhưng may thay,có kèm bài thơ chót của ông,nhiều hạc sinh chép chuyền nhau, đọc tới lui đến thuộc lòng: “Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ.Thiên hạ tùy nhân bất thức quân?Bảy mươi tư tuổi trót phong trần...Nay đang lúc tử thần chờ trước cửa.Có vài ghi nhớ về sau.Chúc phường hậu tử tiến mau.”Phường hậu tử gồm người trẻ, trong đó có học sinh. Lại còn lời cụ Phan phúng điếu lấy mình: “Thiên hổ nhiên, địa hồ nhiên,tử dĩ đồ hư...tích hung trung mai Khổng Mạnh”.Trời làm sao, đất làm sao, chết luống đã phần,dưới đất tiếc vùi lòng Khổng Mạnh ! Nghe qua, thì hiểu,nhưng làm sao hiểu hết tấm lòng của người chí sĩ quá cố. Mãn cuộc đời bôn ba,còn được mấy lời.Không ai đọc lớn,chỉ đọc thầm hoặc lẩm bẩm cho mình nghe.Nét chữ in đen đúa,thẩm thấu vào tâm chức của một thanh niên gầy yếu mới 14 tuổi là tôi.Quên làm sao được !
 

Nếu tôi không lầm thì năm ấy bên Pháp thống chế Pête đã được Ðức phát xít dựng lên, tiêu biểu cho nhóm đầu hàng. Ở Ðông Dương, phe đầu hàng Nhật cũng thắng thế.Lại có phong trào Quốc Gia phục hưng, Pháp Việt phục hưng,nhằm đề cao tinh thần “quốc gia thuần túy” mà tán thành mạnh nhất là giới điền chủ lớn tuổi,công chức, đốc phủ sứ.Nói ra dông dài,làm phiền lòng giới trẻ “sống vội”.Gương Nguyễn Ánh cầu viện Pháp hồi cuối thế kỷ thứ 18 được nêu lên.Tội nghiệp cho ông Phan Thanh Giản.Trường trung học Cần Thơ được đổi là phan Thanh Giảng (có chữ G)với buổi lễ tổ chức long trọng tại sân trường,với những bài diễn văn,giả như nước Việt Nam sắp sửa được ban bố độc lập.Những màn trình diễn thể dục trở thành thời thượng.Quần cụt xanh, Áo sơ mi trắng,giày bố trắng như một kiểu dân chủ bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo. Ðến như ông Á-lịch-sơn Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) bày ra chữ quốc ngữ,La tinh hóa,cũng đề cao là kẻ đồng loã với bọn phát-xít ! Nhưng che giấu làm sao được.Thực dân tự lột trần, còn hơn lột mặt nạ,với cuộc Nam Kỳ Khởi Nghĩa tháng 11 năm1940.Líng cảnh sát đi đầy đường,tuần tiểu gắt gao nhât& là về đêm,cũng về đêm,các giám thị theo dõi học sinh nội trú,khuyên nên đi ngủ sớm, đóng cửa sổ kín,không nên nhìn xuống đường phố. Chuyện gì xảy ra đây?Vài hôm sau,vừa thức dậy, học sinh được khuyến cáo là không nên dụm lại trò chuyện,cứ tập thể dục, đá bóng,tắm rửa sơ sài, ăn buổi sáng. Vài học sinh đi cầu vệ sinh (bố trí sát tường rào) vội vã đến bên tường nhặt và đọc những mảnh giấy in nét mực khá rõ, kiểu in phức  bản với mực tím đậm viết trên lớp xu xoa (thạch).Lính cảnh sát từ ngoài đường vào đến lớp học, đứng sát cửa lớp trông vào,dáo dác.Viên hiệu trưởng đi tơi lui,lanh lẹ. Các giáo sư thì dụm năm dụm ba, nét mặt nghiêm nghị. Cảnh sát và giám thị ra lệnh :

-Ai thấy giấy gì khổ nhỏ có in chữ thì đe nộp ngay cho văn phòng ! Dường như vài học sinh đã nộp.Một giáo sư người Việt nói với đồng nghiệp rằng đã thấy truyền đơn của Ðảng Cộng sản rải trước phòng hiệu trưởng.

Vào lớp, học trò im lặng, lát sau,viên chức “chạy giấy”(phanton, lonton) đến từng lớp, đưa tờ châu tri mà giáo sư đọc riêng rồi tóm tắt rằng:Ai lưu trữ truyền đơn thì bị đuổi,

với hậu quả không đo lường trước được.

Nghe giảng bài lấy lệ, học trò nhìn ra cửa sổ, lính tập người Việt từng tập dượt hồi mấy tháng trước ngồi đầy xe hơi.Trường trung học đã trở thành một trại lính, bây giờ mới thấy rõ nét.

Buổi chiều, học sinh cũng đá bóng, đánh bóng chuyền nhưng uể oải.Tại sao không cho học sinh nghỉ học cho yên ổn? Ðến ngày chủ nhật, phần lớn xin ra ngoài,trọn ngày, 8 giờ tối trở vào trường.Dân chợ phố cũng ăn uống,nhưng dụm lại từng bàn,có lẽ để thông báo với nhau chuyện,gì đã xảy ra.Ngồi ăn gói xôi một mình trong quán,tôi thèm cà phê đen.Không thấy mùi vị gì cả. Ðến thăm mấy “đàn anh” để hỏi han tình hình chăng? quá nguy hiểm cho các vị ấy. Ði rảo xem mấu bàn bida, thấy trống vắng, chờ một anh bạn học rủ ren.

Ngôi nhà việc Tân An là kiểu ủy ban thị xã, có lầu và rộng. Dân chúng qui tụ khá đông,nhưng không được đến gần phía mặt tiền.Hai chiếc xe nhà binh đậu từ bao giờ, trên xe nào heo, gà,vịt, những món mà bọn lính cướp giựt lúc đàn áp. Cậy mình là học sinh trường trung học, mặc đồng phục trắng, thêm phù hiệu thêu 2 chữ C.C (collège de Cần Thơ), hai đứa tôi bước chậm rãi qua bên đường, sát mấy chiếc xe nhà binh.Mấy bánh xe quả thật đã cán trên máu thịt của người khởi nghĩa,còn mấy sợi dây khá dài cũng dính từng khúc,máu đông lại,trổ ra màu đen;Hàng chục tên lính nai nịt gọn gàng,súng gom lại dựng đứng, đang ăn bánh mì. Anh bạn tôi hỏi vu vơ mấy chú lính :

-Bắn được chừng mấy người?

Một người lính mang quân hàm ở cánh tay cằn nhằn :

-Hỏi chi vậy? Mệt thấy mẹ.Hai đêm rồi không ngủ được.

-Tại sao bắn dân mình?

 -Hỏi chi vậy? Mấy ông xáp vô, đốt dinh chủ quận, giết lính mã tà.Bắn chỉ thiên mấy lần mà họ cứ ào tới. Diễn thuyết tại chợ, có một cô gái đứng trên cái ghế cao kêu gọi “tiêu diệt thực dân”.Dân đang nhóm chợ đã tản lạc nhưng cô ta diễn thưyết hoài,không còn ai nghe mà cứ rống cổ kêu gọi nầy nọ. Bắn mấy phát không biết chết cô ta hay không?

Bạn tôi nhìn mấy viên hạ sĩ Pháp đang hút thuốc :

-Ô- là-la !

Bọn Pháp khoát tay xua đuổi. Nhưng bạn tôi vẫn ung dung :

 -Très bien.Très bien ! (Tốt lắm. Giỏi lắm)

 Tối đến,  vào phòng ngủ công cộng của bọn học sinh nội trú,,tôi thấy ai nấy như trầm lặng,nói chuyện khẽ.Còn chừng mươi phút nữa đến giờ tắt đèn ngủ,tôi hỏi một người bạn,kỳ kèo mượn cho bằng được tờ truyền đơn mà hôm trước tôi đọc quá nhanh.

Vào cầu vệ sinh, có đèn sáng. Ở gốc tờ truyền đơn, vẽ sơ sài một đóa hoa, vài chiếc lá. “Hởi các bạn học sinh, những đóa hoa của dân tộc !” Lại phân tích tình hình thế giới, khó hiểu quá.Có nhắc đến tinh thần tranh đấu đời bà Trưng, bà Triệu...Kết thúc lại, kêu gọi toàn thể đồng bào nổi dậy với lời chào quyết thắng.

Rồi một thời gian ngắn, lại nghe tin,do các bạn ngoại trú bảo là sẽ xử tử công khai vụ Hòn Khoai ở mũi Cà Mau. Ðã giết được tên quản đốc ngọn Hải Ðăng. Người cầm đầu khởi nghĩa là thầy giáo Phan Ngọc Hiển bị bắt, sẽ xử tử cho dân chúng xem.Hòn Khoai thuộc về cực Nam,liên quan về khu vực an ninh với Cần Thơ.

Hôm ấy, như là ngày chủ nhật, một số học sinh nội trú xin ra trường chơi. Tôi và vài người bạn đến chứng kiến.Vào lúc hừng sáng, đồng bào qui tụ khắ đông.Tôi nhớ là pháp trường dựng ở sân vận động tỉnh.Ráng chen vào nhưng khó chen.Thấy phía trước khá đông người,có đàn bà, ông lão, đoán chừng là thân nhân của tử tội.Lát sau,xe ôtô đưa tới ba người,bị còng tay,dường như đã bịt mắt sẵn. Buộc vào ba cây trụ. Các tội nhân đi chậm rãi, tỉnh táo.Lính sắp hàng, bồng súng lên. Một sĩ quan Pháp rút gươm hô khẩu lệnh.Súng nổ, tội nhân ngã gục,họ được hưởng thêm phát súng lục “ân huệ”. Ðồng bào từ từ về, nói chuyện rì rào.Có người bảo thầy giáo Phan Ngọc HIển là người đứng giữa, tại pháp trường.Người khác cằn nhằn – đa số là vậy – nói khẻ và chửi nhanh, mơ hồ với hai tiếng Ð.m : “Tụi nó giết dân mình.”Quả thật, suốt ngày ấy, đi dạo phố,vào quán cơm bình dân,toàn  là tiếng cằn nhằn,than phiền.Chẳng nghe ai nói tiếng nào nhìn nhận thực dân đã làm một chuyện “công bình”. Một số người khác thì thủ phận, ở nhà với vợ con và thường ngăn cản không cho con cái đi xem, e gặp chuyện bất trắc. Ở bót Hình cảnh lưu động, đặc trách về an ninh chính trị miền Tây Nam Bộ,  nhiều chuyến xe bít bùng chở người để điều tra, từ khám Cần Thơ đưa đến. “Lời chào khởi nghĩa” trong tờ truyền đơn đã là hiện thực, là bài học lớn cho tôi. Bấy lâu,tận nơi xa xôi của Tổ quốc ta, lòng yêu nước của người dân quê, đa số thất học,chỉ dựa vào thần tượng Nguyễn Trung Trực,nay có thần tượng cụ thể là Phan Ngọc Hiền.Yêu nước nào phải là đọc sách nghiên cứu suông. Không thể dựa vào tư liệu mà chê khen. Không thể lý luận khô khan, khen ba điều, chê bảy điều kiểu “chánh khách xa-lông”.

Phải hội nhập.

Một anh bạn cùng lớp với tôi đã “hãnh diện”hôm vị giáo sư Pháp văn ra đầu bài đại khái: “Lớn lên, nh sẽ chọn nghề gì?”.Phần lớn theo kiểu sáo mòn,cho qua buổi,làm bài với sự lựa chọn hợp ý vị giáo sư, sẽ làm thợ mộc để xây nhà cửa, sẽ làm ruộng, nước Việt Nam sẽ trở thành khu vực nhiều lúa nhất thế giới,ao ước làm y tá để trị bịnh cho người nghèo ở chốn rừng sâu nước độc...Nhưng anh bạn của tôi lại viết một bài gây sửng sốt cho cả lớp học. nh bảo rằng mình là con nhà giàu,tuy kém hơn giới “công tử Bạc liêu”nhưng muốn gì thì làm được nấy ! Lớn lên, không cần bằng cấp,học vị, anh sẽ đi chơi,với chiếc ô-tô và anh tài xế. Anh đã biết hút thuốc thấy vui và ngày chủ nhật,anh cũng uống rượu bia.Anh sẽ trở thành điền chủ lớn,  thừa hưởng gia tài của cha mẹ. Sẽ dạo chơi ra Huế, đi Hà Nội, xem điện Ăng-co rồi qua Pháp cưới vợ người Pháp,một cô tài tử điện ảnh, rồi ăn chơi, làm chủ một tờ nhật báo lớn bên Pháp để hưởng cái tự do dân chủ ở xứ đã phá ngục Bátti năm 1789.

Anh bạn cũng khen ngợi bọn lính Pháp, khi thấy mấy chiếc xe quân đội đi đàn áp ở Tam Bình về, với gà vịt , heo.

Vị giáo sư tóm tắt bài làm của bạn tôi, giọng mỉa mai.Học sinh lúc đầu còn che miệng, nhưng đến phần chót thì cười ầm lên và vị giáo sư Pháp văn cũng cười, lắc đầu.Lúc ấy,tình cờ viên hiệu trưởng đi ngang, ghé lại. Giáo sư ra sát cửa, nói qua lại vài câu rồi cười.Vào lớp vị giáo sư tuyên bố, giọng khá to :

-Gần như lạc đề ! Nhiều điều tưởng tượng điên khùng ! Nam Kỳ thuộc địa của Pháp chứ không phải là nước Pháp.

Anh bạn của tôi cười.Giáo sư trả lại bài tác văn đã làm. Anh bạn như không chú ý,về chỗ ngồi với bàn tay không.

Lễ Nôen năm ấy, tôi nhớ rõ,nhà trường ra lệnh cho học sinh nội trú không được về nhà nghĩ dài hạn.Họ phải ở lại nhà trường?Lệnh nầy áp dụng gắt gao cho những ai quê quán ở Vĩnh Long,Cần Thơ (Cầu Kè,Trà Ôn ),chợ mới (Long Xuyên ), Cao Lãnh (Sa Ðéc ). Ai cũng hiểu đó là những khu vực đã xảy ra khởi nghĩa, dân chúng bị giết, nhà cửa bị đốt quá nhiều.Cũng có nghĩa là những nơi mà quân khởi nghĩa đã đạt vài thắng lợi,công sở bị đốt cháy, đường sá, cầu cống bị hư hỏng. Rồi lại có tin vùng chợ Giữa (Vĩnh Kim) thuộc Mỹ Tho bị máy bay oanh tạc, lúc đang nhóm. Học sinh nhìn nhau,bàn tán.Nghỉ học nhưng vẫn vào lớp riêng để ôn bài vở.Tha hồ đọc tiểu thuyết, sách báo, các giám thị đi tới lui cầm chừng. Buổi chiều,ra khỏi lớp,lại rộ lên phong trào đàn ca. Bản vọng cổ trổi lên, nhiều học sinh tập dượt hòa tấu. Bản Vọng cổ quả là hợp thời, với nổi buồn sâu lắng .Buồn mà không làm ai rơi nước mắt.

Thầy giáo Phan Ngọc HIển, người lãnh đạo khởi nghĩa ở Hòn Khoai bị xử tại Cần Thơ.

Hình ảnh ấy, tên tuổi ấy lần hồi trở thành trừu tượng, khái quát. Ðầu đội trời ,chân đạp đất là vậy.Rồi với Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trở thành biểu tượng cao cả, trở thành một nhân cách lớn mà những người không biết chủ nghĩa cộng sản cũng nhìn nhận trong thâm tâm,lắm khi không nói ra,là có tư cách,có nhân cách.Sau ngày giải phóng 1975, cán bộ ta cố sưu tầm tư liệu, phát hiện thêm cho thế hệ sau biết lúc sinh thời, thầy giáo Phan Ngọc Hiển đã hăng hái viết báo,bênh vực quyền lợi của người dân mất nước.

Kháng Pháp rồi chống Mỹ,bao nhiêu chiến sĩ xuất hiện với tầm vóc ngày càng rộng lớn nhưng chuyện thầy giáo Phan Ngọc Hiển vẫn còn âm ỉ trong tâm tư người địa phương  với nhiều chi tiết dễ gây xúc động.Mới đây,cuối năm 2000, trong cuộc thi truyện ngắn,tiểu thuyết(do NXB Trẻ và Hội Nhà Văn TP.HCM tổ chức), một tập truyện nhan đề Ngọn Ðèn Không Tắt của nhà văn nữ Nguyễn Ngọc Tư đoạt giải nhất.Ngọn đèn không tắt kể lại chuyện của thầy giáo ở Hòn do một nữ sĩ trẻ thuộc thế hệ sau ngày giải phóng 1975. Cô kể một cách hồn nhiên, như đứa cháu nội nhắc nhở kỷ niệm xưa, gọi thầy giáo là Thầy, không có tên Phan Ngọc Hiển kèm theo, vì kính nể,vì chẳng lầm lẩn với ai khác, vào bối cảnh xưa. Không phải tất cả dân dự buổi nói chuyện kỷ niệm khởi nghĩa, nhưng có đủ lứa tuổi tham dự.Người trong cuộc đã chết, người nghe trực tiếp thời ấy cũng chết vì quá già.Thế hệ trẻ chỉ mò mẫm, ráp nối với đôi chi tiết sống động, gây bâng khuâng .Khi khởi nghĩa thành công trên đảo mà Pháp đặt ngọn hải đăng,Thầy rút lui và căn dặn mấy người Việt làm công ở đảo phải giữ ngọn hải đăng, đừng cho tắt.Về kỷ thuật bạo động,tôi suy luận,giữ cho hải đăng còn cháy để quân Pháp khi nhìn ra biển, ngỡ rằng ngoài đảo không có gì xảy ra.Nhưng ánh sáng của ngọn đèn ấy không bao giờ tắt lại là niềm tin mãnh liệt mãi đến mai sau.

Vài anh bạn lúc rảnh rang lại thích ca tài tử và có sáng kiến đem bài Tựa truyện Kiều chuyển ra lời Vọng cổ, hát nghêu ngao.Trong Quốc văn trích diễm của Dương Quảng Hàm đã trích bài tực nầy, Chu Mạnh Trinh đặt ra, Ðoàn Quý dịch :

-Than ôi, một bước phong trần, mấy phen chìm nổi,trời tình mờ mịt,biển hận mênh mông...

Hỡi ôi, hồn còn biết hay chăng, bóng hoàn bội tưởng ra vào nơi Lạc phố

Hiểu là Thúy Kiều, người đẹp đeo ngọc đã lên cõi tiên, bất hủ.

Buổi sáng nọ,trước giờ tập thể dục,viên hiệu trưởng ra lịnh tập hợp học sinh tại sân lớn.Giới thiệu vài sinh viên Ðại học Hà Nội vào, phổ biến bài hát mới, lời tiếng Pháp,(sau này dịch là Sinh viên hành khúc hoặc Tiếng gọi sinh viên).Trong số sinh viên Hà Nội đến trường Phan Thanh GIản, tôi nghe giới thiệu nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, sinh quán Ô Môn,tỉnh Cần Thơ, đã học trường Cần Thơ nầy, đang học Ðại Học Hà Nội.Ngoài ra còn đôi người nữa,tôi không nhớ.Lại nói thêm rằng Lưu Hữu Phước là học sinh ưu tú nay về thăm trường cũ. Lưu Hữu Phước hát, đánh nhịp cho học sinh hát theo. Bài nầy gây phấn khởi lạ lùng, học sinh được phân phát một người một bản để sau nầy sử dụng.

Một sự kiện lịch sử đối với tôi là đón tiếp vua Bảo Ðại,do chánh quyền Pháp ở Cần Thơ tổ chức. Học sinh đóng vai chủ động,múa điệu thể dục nhịp nhàng,cầm cây gậy tròn, sơn màu cờ tam sắc,quơ qua quơ lại,nghiêng mình,quì gối, đại khái kiểu thể dục nhịp điệu của thiếu nữ ngày nay.Vua và Hoàng hậu đến, ai nấy phấn khởi,như dành cho thiên cảm vì tự trong tiềm thức,mình là nước mấy ngàn năm văn hiến mà không có ông vua thì vô duyên quá! Lính mã tà xếp hàng rào danh dự chờ sẵn. Dân ngoài đường, ngoài cổng ung dung đứng xem, chắp hai tay sau mông. Vài cụ già khăn đen áo dài,che dù đến,chắp tay xá khi vua đi ngang nhưng động tác ấy xem như lạ.Vua còn trẻ, mập mạp,mặc hoàng phục màu vàng,khăn vàng. Nam Phương hoàng hậu theo sau,bén gót.Cả hai ngồi xuống hàng ghế đầu, bên cạnh quan Pháp.Lại có người mặc áo xanh,khăn xếp,có lẽ là Phạm Quỳnh.Vua không nói gì cả, mĩm cười,nhìn thẳng. Hoàng hậu cầm cây quạt,xoè ra che miệng, nghiêm nghị nhưng trông như vui.Nói chung,dư luận cho rằng bà Nam Phương mặt mày trông “phúc hậu”, xứng đáng hơn... ông vua. Dụng ý của thực dân và của bọn quân nhân Nhật đang lộng hành là muốn tạo dư luận về kỷ cương của “quốc gia”. Dân đứng phía xa cứ dùng tay chỉ chỏ, phải chăng nhà vua như thấy bực bội? Quả thật,vua chỉ là khách,xứ nầy là thuộc địa Pháp, đến xem vì tò mò. Ðọc báo thấy nước An Nam buổi ấy có bản Ðăng đàn cung, một kiểu quốc thiều nhưng nhạc ấy có trổi lên hay không, chẳng ai biết ! Vài huấn luyện viên thể thao, do Pháp đào tạo ở Phan Thiết đưa về đã trình diễn, sắp hình Kim tự tháp,lớp dưới tám người, đứng trên vai họ là 6,là 4,là 2 người. Ðến những thanh nữ mặc quần ngắn, sơ mi ngắn,diễu hành rập ràng,rồi thiếu nhi.Thực dân đang suy đồi,cố đàn áp cuộc khởi nghĩa,dường như bỗng dưng còn dạt dào sức sống ! Hằng tuần,học sinh diễu hành trên đường phố Cần Thơ,ca ngợi thống chế Pête (Pétain),Thống chế nầy thắng Ðức hồi Ðệ nhất thế chiến (1914-1918)với trận vécđon lừng danh lại chịu đầu hàng quân Ðức qua trận chiến vừa rồi,ngoan ngoãn làm tay sai.Nhưng cố giữ thể diện qua lời ăn tiếng nói:Nước Pháp cũng như nước Việt,thuộc địa Pháp, cần thức tỉnh, phục hưng luân lý quốc gia để cầu mong giữ được nước.Thanh niên nam nữ diễu hành khắp đường phố, đi rập ràng, phô bày thể lực.Hát rằng: “Ngài thống chế ơi,chúng con có mặt đây,trước mặt ngài là người đang cứu vãn nước Pháp.Xin thề theo chân ngài để phục vụ Tổ quốc”.Lại còn bài tưới trẻ hơn:Một đóa hoa tươi cài trên nón,một bài hát nở trên môi.Một con tim vui vẻ và thành thật.Với bao nhiêu điều kiện cơ bản ấy,chúng ta có thể tiến tới nơi xa vời nhất của địa cầu nầy.

Lại còn sự động viên khéo léo, đánh vào bản năng hiếu chiến như thời còn là bộ lạc, chưa văn minh.Thanh niên lực lưỡng xếp hàng chừng mười chàng,viên trưởng toán chợt la lớn bằng hai tiếng Pháp: “Chú ý.Chuẩn bị xông trận !” Ðoàn thanh niên lập tức rùng hai gối cho thấp,hai bàn tay nắm chặt,như hạ quyết tâm;Rồi cả bọn la lớn,rập ràng :

-Pi,Ha,Hi

-Pi,Sơmi,Ladam.

Phải chăng đây là tiếng động viên của bộ lạc nào ở châu Phi, thời tiền sử. Mãi đến nay, đọc sơ qua vài quyển sách về văn minh cổ, tôi vẫn không hiểu.Muốn hỏi, hỏi ai bây giờ?
Lại còn những cuộc thi khá ngoạn mục, gọi chạy Việt dã (cross country).Họ chạy tắt theo một lộ trình mơ hồ,chỉ biết nơi xuất phát và điểm đến.Ai đến trước thì thắng giải.Gay go lắm.Chạy băng ngang qua vùng đất hoang, nơi có đường sá, nơi sình lầy,vượt chướng ngại vật,lắm khi phải băng qua vũng bùn đầy gai góc,bụi rậm.Kẻ thắng cũng như kẻ bại khi đến đích được reo hò, nhưng mình mẩy họ ướt mem, lem luốc.

Kiểu tập dượt quân sự chăng? Ðể khi hữu sự thì đánh giặc. Ðánh cho ai, vì mục đích gì? Ðáng chú ý là phong trào nầy khá hấp dẫn đối với dân thành thị đang có khoảng trống tâm hồn.Người xem như thích thú.Nhưng cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ năm trước còn đó, với những chiếc xe lấm máu,với người bị bắt, xỏ nhượng, đưa lên Sài Gòn, nhốt dưới hầm xà lan,chờ đưa ra Côn Ðảo. Những thường dân bị bắn giết,tra tấn dã man.Khám đường chật chội. Sau nầy được biết thêm ở Cao Lãnh, ở Cai Lậy xảy ra sự đàn áp bắt bớ khôn tả xiết, nhất là Cai Lậy với đốc phủ Tâm người “quốc gia”cũng ghê tởm,vượt mức tưởng tượng,gọi hắn là “con hùm xám”.Nhộn nhịp ở học đường và cơ quan là phong trào “khỏe để phụng sự”, “Ðoàn kết và mạnh khỏe về thể chất để phụng sự”?.Nhưng ai đoàn kết với ai? Mạnh khỏe để đi lính, phụng sự cái gì?Phải chăng là cho thực dân Pháp đã lừng khừng, đầu hàng Nhật. Singapo một cửa khẩu và căn cứ hải quân,không quân của Anh từ lâu đã lọt vào tay Nhật,Nhật thảo kế hoạch lập khối Ðại Ðông Á,ra báo chữ Việt,lại có bài ca đại khái với lời lẽ “Ta là người Việt Nam... Á TẾ Á”. Á Tế Á là Á châu,Anh gọi là Asia,viết theo chữ Hán.Lại có Nghĩa sĩ đảng do người Nhật thành lập,thủ lãnh ở Cần Thơ là người Việt với người đẹp luôn luôn đi bên cạnh.Vài người Nhật mang gươm,với quân hàm,theo sau là mươi người Việt và một vài lính Nhật mà thiên hạ bảo đó là người Trung Hoa bị bắt đi lính ở Mãn Châu,hoặc người Mông Cổ (?). Lại đồn rằng mấy người nầy thuộc đảng HắcLong có quyền tiền trảm hậu tấu (?).Thanh niên cứ hát, đi đều bước, thêm số thanh nữ đẹp và khỏe. Ảnh thống chế Pêtain biểu tượng của nước Pháp “phục hưng” được trưng bày khắp nơi. Về mặt nổi,bức tranh xã hội như sôi động, nam nữ đang tuổi dậy thì say sưa với lối suy nghĩ mới;phải đẹp,mạnh khỏe về thể xác, giỏi về thể thao,những chuyện lớn lao của cả nước thì đã có các bực lão thành, các vị chính khách lo rồi. Nên tuân thủ, đừng bày ra lý luận viễn vông. Nhưng hỡi ôi,ai cũng thấy đó chỉ là bề mặt giả tạo, mỏng manh, lòe loẹt như bó hoa chưng bày trong bình đã nứt trong căn nhà đang phá sản. Ai nấy lo toan, nhưng chưa biết lo toan chuyện gì?Nhất định sắp có việc lớn xảy ra,không tránh được. Dưới biển, có những tảng băng chìm,to tướng đang trôi lờ đờ.Trên mặt biển,chim hải âu bay lượn nhưng sự yên lặng rõ ràng là giả tạo.Thối nát từ cốt lõi.Trong vở kịch của Sếchpia,dường như nhan đề là Hămlét, một nhân vật đã thốt câu lừng danh: “Có mùi gì thối rữa đang bốc lên từ vương quốc Ðan mạch nầy”. Ðền như thơ Lục Vân Tiên cũng được đề cao:Trung hiếu và tiết hạnh được nhìn qua khía cặnh là ngoan ngoãn,sống bám theo hình thức cổ truyền.Trung với nước Pháp, nghe lời nước Pháp đang đầu hàng; Ðến như ca dao,ngạn ngữ của Pháp và Việt cũng được gom góp,tuyển chọn,chứng minh rằng văn hoá Việt và Pháp rất tương đồng,siêng năng,ngoan ngoãn,an phận,tin vào luật quả báo.NHưng lớp vỏ quảng cáo ấy quá mong manh.Bối cảnh lịch sử đã khác hẳn.

Bản Vọng cổ xem như thôn dã,chữ nghĩa mơ hồ, xa thực tế nhưng chứng minh sự trong sáng của văn hoá Việt.Kinh nghiệm nầy,tôi thấm nhuần được nhờ xem qua Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân. Văn nghệ là sản phẩm đa dạng.Trong lúc bầu không khí nóng bỏng,nếu khó tánh ta sẽ đánh giá đây là sản phẩm vọ tích sự,cầu an,thậm chí gây tác động tiêu cực, ru ngủ...Nhưng nghệ thuật,cụ thể là quyển Thi Nhân Việt Nam theo tôi thấy,lúc bấy giờ quả thật là cần thiết,với mặt chìm,tiềm ẩn của nó.Nó chứng minh rằng người Việt Nam, đã triển khai tài năng của người xưa để lại,qua ca dao,qua chuyện Kiều.Thi Nhân của thề hệ mới chịu khó,chịu vấp váp để cạnh tranh nhau,theo kiểu cạnh tranh lành mạnh;Thử đọc lại vài tuyển tập thơ ca của cuối thế kỷ 19 , đầu thế kỷ 20,ta gặp nào thơ Ðường luật,ca trù,kiểu văn chương thù tạc,lời lẽ công phu,nắn nót, đời sau chỉ nhớ đôi mươi bài hay.Thế kỷ 20 là thời kỳ mở tung với ảnh hưởng sâu đậm của Tây Phương, đẵc biệt là văn hoá Pháp,không rei-ng về thơ ca mà cả về kiến trúc, âm nhạc,hội họa.

Ngập ngừng mép núi quanh co

Lưng đèo quán dựng,mưa lò mái ngang

Vi vu gió hút nẻo vàng

Một trời thu rộng, mấy hàng mây nao

Nghe man mác, sâu láng, dễ hiểu,rất Việt Nam

Lớp lớp mây nao đùng núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa. (Huy Cận)

Hoặc:
Lời kỹ nữ

Xao xác tiếng gà

Tiếng ngà lạnh buốt

Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi.

Du khách đi,

Du khách đã đi rồi. (Xuân Diệu)

Phải hội nhập với trào lưu mới, thời đại của phi cơ, điện thoại, tàu chiến.

Tôi đã hiểu tại sao lúc gạo châu củi quế mà Thi Nhân Việt Nam bán giá cao đã thu hút độc giả. Một cuộc tính sổ của giai đoạn thực dân.Tôi nhớ ở trường Trung học Cần Thơ học sinh chỉ mua chừng mưoi cuốn, chuyền tay nhau mà đọc. Ðọc rồi chép.Lứa trẻ luôn luôn lãng mạng, hâm mộ cả người làm thơ.Trong Thi nhân Việt Nam ghi tiểu sử, với ảnh, địa chỉ các nhà thơ, vài bạn thử gởi thơ làm quen,nói chung các thi nhân trả lời rất nhã nhặn.

Thơ Chế Lan Viên khóc số phận người Chăm, mới lạ mà quen thân :

Chiều hôm nay ngồi đây trên bờ biển,

Ta lặng đếm thử bao nhiêu thế kỷ,

Ðã trôi trong một phút vội vàng qua.

Ta lặng nghe cả thế giới bao la,

Tụ họp lại trong lòng muôn hột cát

Hàn Mặc Tử được lưu ý và mến mộ với vài câu đơn giản mà trước ông dường như không ai nghĩ đến:

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên…

Gió theo lối gió, mây đường mây

Cành trúc buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay.

Rất tiếc là trong tuyển tập nầy, chỗ dành cho Thâm Tâm và Trần Huyền Trân gần như không có.Tại sao vậy? Ðó là hai nhà thơ đắng cay với thế sự, nhưng là điệu thảm não tích cực.

Thí dụ như trong Ðộc hành ca, đăng báo xuân năm ấy, phải chăng đã nhắc đến Nam Ký khởi nghĩa 1940 qua hai câu :

Ngẩng đầu, núi quấn mây tang,

Ngó đông lửa cháy, nhòm Nam khói mù.

...Cố nhân ai hỡi người xưa

Dọn đi tâm sự, đây mưa về rừng!

Cần Thơ là trung tâm văn hoá - hiểu theo nghĩa văn nghệ.Những năm ấy,sẵn cơ chế về pháp lý, bèn lập Hội khuyến học Cần Thơ với thành phần sáng lập viên là những người đáng cho nhà nước tin cậy: bác sĩ Lê Văn Ngôn (em học giả Lê Thọ Xuân ),giáo sư Nguyễn Văn Kiết dạy trung học Phan Thanh Giản,thi sĩ Trực Thần (thơ ký sở Trước bạ )...Tổ chức buổi nói chuyện về Bùi Hữu Nghĩa, về Cử Trị là những nhà thơ có phần mộ ở Cần Thơ. Bùi Hữu Nghĩa gốc ở Bình Thủy.Hai vị nầy là sĩ phu yêu nước thời Pháp đến.Họ Bùi gốc nhà nghèo, gia đình chài lưới, tới lui vùng rạch Cái Khế, sau đi Biên Hòa học ở trọ nhà bà con, vợ ở Biên Hòa là bà Nguyễn Thị Tồn. Bà nổi danh với thành tích lớn:dám ra tận Huế kêu nài cho chồng khỏi án tử hình vì bị viên bố chánh Trà Vinh buộc vào tội xúi giục người dân tộc Khơme nổi loạn. Bùi Hữu Nghĩa đã bênh vực quyền lợi khai thác cá tôm (gọi thủy lợi )của người Khơme địa phương. Ông Bùi làm tuồng cải lương ra đời, Kim Thạch Kỳ Duyên như chẳng còn tiếng vang. Ông về hưu khi Pháp đến, giữ tiết tháo, hoạ vận bài thơ của Tôn Thọ Tường (theo giặc),ca ngợi nghĩa quân ở chiến khu, xem bọn theo giặc là loài cáo.

Hùm nương non rậm, toan chờ thuở,

Cáo loại vườn hoang thác có ngày.

Một góc cảm thương dân nước lửa

Ðền Nam trụ cả dễ lung lay.

Một chi tiết:Khi lâm bệnh nặng, ông khuyên người nhà sờ vào chân,thấy chân bắt đầu lạnh thì báo cho ông biết.Khi người nhà bảo đã lạnh, ông nói bình thản: “Thôi, ta đi”.Rồi tắt thở, êm ái.Hiểu rằng ông đã tu tiên từ lâu, không chủ động được trước tình thế nước mất nhà tan thì ít ra khi nhắm mắt, cũng chủ động trước số phận của cá nhân mình.Nhớ lại trường hợp Tiên Ðiền Nguyễn Du.Thích tiêu dao đó đây, câu cá ở biển Nam, săn bắn trên núi Hồng, đầu đội khăn màu vàng.Bất đắc chí vì Trịnh -Nguyễn phân tranh, khi gần hấp hối cũng căn dặn người nhà sờ thử cho biết đôi chân đã lạnh chưa.

Bùi Hữu Nghĩa có bài vị tại chùa Nam Nhã, chùa Ðạo Minh Sư do ông lão (cũng như vị đại lão hoà thượng trụ trì)nổi danh là Nguyễn Giác Nguyên, một trong những lãnh tụ lừng danh của Nam Bộ hồi phong trào Minh Tân (Duy Tân ).Minh Sư là dạng tu tiên khổ hạnh,cơ ngơ tu hành không gọi là Tự nhưng là Ðường. Ngoài những buổi trình diễn thuyết về văn hoá dân tộc,hội còn mở cuộc thi văn học.Giải nhất thuộc về Phi Vân,với tác phẩm Ðồng quê, gồm nhiều truyện ngắn gây ấn tượng sâu đậm (mãi đến nay,vẫn còn độc giả ).Những chuyện vui tươi, gọn gàng.Bấy lâu,nhiều người nhận định ở Nam Bộ chỉ là “văn nói”.Với Ðồng quê của Phi Vân,ta thấy  “văn nói” nào phải lấy cái máy ghi âm để “thâu băng” rồi phát ra,viên thơ ký đánh máy lại là xong. Ðó là một kỹ thuật riêng, đòi hỏi tay nghề,câu nào phải cải biên,nói theo người viết nhạc là “biến tấu”lại,tóm gọn hoặc kéo dài ra.Chữ nghĩa trên trang sách khó diễn đạt lại giọng điệu hoặc bộ tịch của người nói.Về mặt nầy,tôi thấy Phi Vân lúc bấy giờ đâu khoảng 30 tuổi đã thành công.

So với văn phong của Trương vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của,luôn cả Hồ Biểu Chánh, ông đã cải tiến một bước dài với “văn nói”.

Phi Vân (nếu tôi không lầm) là người lai Hoa, làm xã trưởng, đã chịu thâm nhập vào dân vùng Cà Mau, đúc kết những nét điển hình,ghi lại những kiểu ăn nói duyên dáng của người Việt từ miền Nam Trung Bộ, người Hoa lai Việt đi khẩn hoang tận vùng Cà Mau. Họ góp phần vào giọng ăn nói đượm vẻ vui tươi nhất là hài hước,khi khẩn hoang, cực khổ,bế tắc những lạc quan.Thí dụ như câu hò dài,mỗi câu đâu cũng 50 tiếng,nói bắt vần,chắc là từ vùng Tiền Giang do dân khẩn hoang đem tới.

Lúc Hội khuyến học hoạt động, tôi buồn phiền vì ở Rạch Giá quê tôi có Huỳnh Mẫn Ðạt giỏi về thơ ca.Có người trưng bằng cớ về sự giao du thân mật giữa Huỳnh Mẫn Ðạt và Bùi Hữu Nghĩa,và chứng minh rằng bổn tuồng hát bội Kim Thạch Kỳ Duyên có phần đóng góp đáng kể của họ Huỳnh.

Huỳnh Mẫn Ðạt quê Cái Bè (tỉnh Tiền Giang ),làm chức tuần vũ ở Hà Tiên, Pháp đánh chiếm, ông về dưỡng nhàn ở Rạch Giá,bấy giờ tỉnh Hà Tiên gồm luôn Rạch Giá, ăn luôn vùng mũi Cà Mau.Bên vợ họ Huỳnh là điền chủ,nhờ vậy mà khi hưu trí ông thỉnh thoảng đi Sài Gòn tham quan cho biết sự đổi mới của “tân trào”. Bấy giờ, chỉ dùng đường thủy, sắm chiếc tam bản có mui, với ít nhất hai người chèo, ngày đêm cực khổ, đường thủy khoảng non 300 kilômét.

Theo giai thoại phổ biến, thì khi đến Sài Gòn dạo chơi, họ Huỳnh tình cờ gặp Tôn Thọ Tường. Bấy giờ thắng thế là “Việt gian”nhưng Tôn Thọ Tường vội vã xuống xe song mã, với ít nhiều mặc cảm tội lỗi, xấu hổ. 

Huỳnh Mẫn Ðạt làm bài bát cú,với những câu :

Ðã cam bít mặt cùng trời đất,

Ðâu dám nghiêng mày với ngựa xe.

Hớn hỡ trẻ giong đường dặm liễu

Lơ thơ già núp cội cây hòe.

Núp nom cũng hổ, chào thêm hổ,

Thà ẩn non cao chẳng muốn nghe.

Tôn Thọ Tường vội phân trần :

Thế cuộc đổi dời đà lắm lắm

Thiên cơ mầu nhiệm hãy còn nhiều.

Nước non dường ấy, tình dường ấy,

Xe ngựa bao nhiêu, bụi bấy nhiêu.

Hăm hở nhạc Tây hơi trổi mạnh,

Nghe qua ngùi nhớ giọng Tiêu thiều.

Bấy giờ,chưa mở đường xe lửa Sài Gòn -Mỹ Tho, những kiểu tàu cuốc (xáng) chưa đưa qua Nam Bộ hòng mở mang kênh đào nhưng Tôn Thọ Tường dự đoán rất đúng rằng sức mạnh của thực dân nào phải chỉ có bao nhiêu, như đã thấy.Còn nữa và còn nữa.Năm xưa, khi Pháp mới đến, chiếm gò Cây mai, họ Tôn bắt đầu hợp tác với giặc,thấy xốn xang: “Tò le kèn lạ mặt trời chiều”.Nhưng giờ đây,họ Tôn thấy mình quả là có lý khi theo giặc, vì giặc quả là thật mạnh.Cũng là tiếng kèn đồng của quân đội Pháp nhưng nó không phải là “tò le”tro trẻn nhưng là tiếng kèn mạnh khỏe của thế lực đang lên ! Người theo giặc vẫn nhớ, qua tiếng kèn ấy,những bản Tiêu thiều với 3 hồi 9 chặp, dạng quốc ca của triều đình xưa.

Lũ học sinh trung học chúng tôi bấy giờ quả là cô đơn và rối rắm,chẳng biết nên làm gì.Học thêm quả là vô ích,xa vời,còn về tình hình thế giới và trong nước thì quả là mù tịt.Làm cách mạng kiểu nào đây? Gặp anh bạn bơi lội giỏi từng giới thiệu tôi qua phà Cần Thơ thì biết rằng các người chống Pháp,theo cộng sản đáng tin cậy dường như lần hồi dời chỗ ở vì một đôi người ở Cầu Kè,Tam Bình bị bắt,có thể cung khai.Anh bạn của tôi kết luận,buồn buồn :

 -Tụi mình nhỏ quá,chưa được 15,16 tuổi,không đủ trí tuệ và bản lĩng cho anh em tin cậy,lúc khó khăn nầy.Dường như Pháp và Nhật đang bắt tay nhau đàn áp.Thậm chí,người theo đạo Cao Ðài cũng bị tình nghi.Thôi thì cứ chờ.

 

Thôi thử đi xem một phiên xử án ở Tòa đại hình Cần Thơ, cấp cao của miền Tây Nam Bộ,còn gọi Tòa áo đỏ. Không gặp buổi xử tội nhân chính trị, vì nghe đâu tội chính trị thì do tòa án Quân sự xử lý sao đó. Buổi ấy,xử tội sát nhân.Tội nghiệp vô cùng.Sát nhân với tang vật là phảng phát cỏ, cán không uốn 90 độ so với lưỡi, tội nhân đã “kéo cỗ”, tức là kéo lại cho lưỡi và cán nằm theo một đường thăng, trông như lưỡi gườm dài.Chuông reo, chánh án,chưởng lý,toàn người Pháp, luật sư là người Ấn mang quốc tịch Pháp. Cáo trạng dài dòng, đọc lên toàn tiếng Pháp.Can phạm bị còng tay, đứng cúi đầu,buồn bã, ở hàng khán giả,dường như có thân nhân. Hơn một giờ sau,chánh án hỏi vài câu,qua thông dịch viên.Và can phạm trả lời,có thông dịch viên.Như vậy là công lý à? Can phạm chẳng hiểu gì ráo để vào giờ chót,có thể tự bào chữa.


Lúc gọi phạm nhân đến trước vành móng ngựa, nói rõ tên họ và quốc tịch, nói tiếng Pháp,xin tạm dịch là người nước An Nam nhưng không phải đạt dưới sự cai trị của vua nước An Nam ở xứ bảo hộ Trung Kỳ. Mà là con dân tay sai của nước Pháp ở xứ Nam Kỳ! Tôi thấy nản, nói theo ngày nay là kiểu “buồn nôn”. Bèn đi tìm anh bạn đồng môn để bàn tán bâng quơ về Tôn Thọ Tường khi gặp Huỳnh Mẫn Ðạt tại Sài Gòn.Tôi chê họ Tôn nhưng khen sơ sài.Anh bạn ngắt lời :

 -Không thể so sánh chê khen người của thế kỷ trước, hồi Tây mới đến. Hoàn cảnh bây giờ đây có khác. Ai cũng sống với thực dân Pháp đâu từ hồi ông nội, chẳng lẽ mọi người đều đầu hàng giặc? Nên suy nghĩ lại trước tình hình mới.Thực dân bắc cầu, bồi lộ, mở trường trung học...với thuế má và mồ hôi của dân mình. Nhưng tụi học trò như mình kém cỏi quá.
 Tôi lại buồn. Học không ra học. Ðánh thực dân là chuyện ôi thôi, khó quá.Nam Kỳ khởi nghĩa năm trước bị dập tắt quá nhanh, thêm người hy sinh.

Bạn tôi nói :

 -Ðọc báo thấy kể chuyện Nhật Bổn đang chiếm nước Tàu.Bên ấy kêu gọi “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”hoặc “Cởi áo cà sa khoác áo chiến bào”, hoàn cảnh đó chắc còn lâu mới xảy ra ở Cần Thơ .


Tôi rất yêu thơ vì thơ là sức mạnh âm thầm nhưng bền bỉ,vương vấn nhiều năm.Lòng yêu nước của tôi dính dấp cvới htơ,môn glung,lắm khi tiêu cực. Khó đoán về con người qua lời thơ do họ sáng tác hoặc thơ mà họ yêu thích. Môt người bạn bỗng thử nghiệm dạng thơ tắc tị, khó hiểu,có lẽ ảnh hưởng của Xuân Thu Nhã Tập đã bỏ ra một tháng để làm mấy câu sau đây:
Lạnh nhạt mai chiều duyên cỏ sương,

Rót niềm cô tịch, mộng cô đơn.

Mắt xanh lãnh đạm người tay trắng,

Dù ép bên lòng quả nhớ thương.

Tình ngại sang sông đuối giữa dòng,

Ðành cam lấp hận dưới chờ mong

Ngày xanh đêm trắng buồn tơ đỏ,

Hờ hững sông trong nắng rải hồng.

 Siết tay cho chết niềm sương cỏ

Nuốt hết muôn đời lệ cỏ sương.

Xây nốt trường thành muôn bóng đỏ,

Ngăn hồn bướm dại mộng yêu đương.

Tôi nhớ mãi vì người làm thơ nầy nhà rất nghèo, đi học mặc áo vá nhưng học quá giỏi,nhớ dai các bài học.Về sau, khi Cách mạng Tháng tám nổi lên, anh ta gia nhập quân đội Vệ quốc đoàn, chỉ huy một trung đội đánh trận Vàm Nhơn (Cần Thơ ),hy sinh oanh liệt, đơn vị của anh đâu chừng năm cây súng lửa, kiểu súng bắn chim tịch thâu từ mấy vị điền chủ, vì họ được phép sắm súng.Trong khi ấy, không ít anh bạn đồng lớp với tôi làm thơ nghe tràn “khẩu khí”nhưng chưa chi đã vội theo giặc, đánh phá cách mạng rất hung hăng.Học hành cầm chừng,chờ bã trường, sáng chủ nhật nọ,vì không tiền dằn túi,tôi ở lại trường để “đọc sách ngâm thơ”. Ðột nhiên vào khoảng 7 giờ sáng, viên giám thị báo tin rằng cha tôi đến thăm và giám thị cho phép tôi ra ngoài chơi, trọn ngày chủ nhật.Tôi mừng thầm. Cha tôi còn mạnh khỏe nhưng ốm yếu hơn mọi khi, phải chăng vì ông mặc chiếc áo lãnh màu đen, mềm mại mà khi ở nhà tôi chưa bao giờ thấy. Áo hơi cũ, chắc là mượn của ai để khi lên thủ phủ miền Tây nầy thiên hạ không chê khen. Ở môi trường nầy, kiểu áo ấy rõ ràng là trơ trẽn, chưa hài hòa, đúng ra, phải mặc áo sơ mi trắng như bao nhiêu phụ huynh khác..Một ý nghĩ thoáng qua giây phút.Cũng hài hòa, còn hơn là vài phụ huynh giữ cái búi tó. Một truyện ngắn nào đó khá cảm động đã kể lại, người viết truyện tỏ ra tự tin và hãnh diện.

Tình thế đất nước như vầy mà còn xúc động, tủi thân à?Phải hãnh diện chứ.Trung nông ở rừng U Minh xa lơ xa lắc, nghe cái tên đất nhưng mấy ai đã đi đến?

 Cha tôi và tôi đi bên cạnh, sát lề đường.Cha tôi bảo là tìm trường học nầy không khó vì Cần Thơ chỉ có một trường Phan Thanh Giản mà thôi. Cha tôi bảo  là có chút ít tiền, muốn đi dạo một vòng chợ .Nó rộng rãi, đâu có khúm núm như chợ Rạch Giá, Long Xuyên.Trường học nầy Tây xây cất lớn quá,hồi năm nào?

Vì Cần Thơ quá rộng,tôi bèn gọi chiếc xe kéo, hai cha con ngồi lên.Tôi chỉ dẫn vài dinh thự nhà lồng chợ, ngân hàng canh nông rồi dừng lại để uống cà phê, ăn hủ tíu. Bên cạnh  quán cóc nầy là con rạch Cần Thơ, đổ ra sông Hậu.Tôi giải thích rằng sông Hậu nầy đổ ra biển, phía Sóc Trăng,nhưng nếu đi ngược lên phía tay trai của mình là phía Bắc thì nước đổ xuống từ nước Cao Miên,Lào. Một bên là Lào, bên kia bờ là Xiêm, ăn lên nữa tới ranh Miến Ðiện,gặp Trung Quốc rồi lên Tây Tạng cao ráo và to rộng,nơi có dãy Hy Mã Lạp Sơn.

- Chừng bao nhiêu cây số ?

-Tới Hy Mã Lạp Sơn hơn 4 ngàn cây số.

-Xa quá chừng,như vậy sao?Từ đây tới nhà mình ở U Minh đã xa rồi,nhưng mới được 160 cây số.Tao nghe nói ở Tây Tạng còn nhiều điều bí mật lắm.Thiên cơ bất khả lậu.Nhiều người tu luyện ở xứ đó sống vài trăm năm ,nhịn đói mà mạnh khỏe,nhờ bùa phép,thần chú.
 Rồi cha tôi nói tóm tắt rằng từ mấy tháng qua, nhiều người ăn mặc kỳ lạ, bới tóc, mái tóc quá dài, lắm khi quấn chung quanh cổ, đội nón vải màu ngũ sắc,tự xưng là dân Tây Tạng, truyền rao sắp đến lúc tận thế, muốn được cứu rỗi thìcứ tụng câu thần chú: Úm-ma-ni bắt-mi-hồng,tụng mỗi đêm trước khi ngủ chừng mươi lần...Năm nay, ít người chịu làm ruộng,phần lớn già trẻ đều mang bịnh sốt rét,thêm bịnh ghẻ hờm , lở lói.

Ăn điểm tâm rồi,cha tôi đi theo mé sông, như buồn rầu, cho biết gia đình dạo nầy túng bấn.

Tôi nghĩ mình đã lớn khôn, buột miệng hỏi :

 -Thưa cha , như vậy là nhà túng bấn,chắc cái bộ lư thờ không bao giờ chuộc nổi. Bộ lư đem cầm ở tiệm ngoài Rạch Giá hồi năm trước.

Cha nói tỉnh táo :

 -Món thờ cúng, của ông bà để lại.Làm sao đủ tiền chuộc, cứ đôi ba tháng, mấy năm rồi ,ba tới đóng tiền lời. Riết rồi ba xin bán rẻ cho tiệm cầm đồ,lấy mấy đồng bạc, ăn xài cũng hết.
 Thấy tôi lặng thinh hồi lâu, ba tôi gật gù :

 -Con là đứa có hiếu, còn nhớ chuyện bộ lư.Học hành dở dang là do thời cuộc.Thí dụ như thi đậu thì đi làm công chức cho ai?Tụi Tây coi bộ không còn lâu ! “Thần suy quỉ lộng”Hương quản là người giữ trật tự, bắt trộm cướp vậy mà từ mấy tháng nay lại chứa chấp bọn trộm cướp, đành rằng không phá phách làng mình nhưng lại đi phá làng khác, bày tiệc ăn mừng ,om xòm trong xóm.

Ðối với tôi, ba tôi khi gọi con, khi bằng mầy,trong tình thân mật :

 -Mầy tính chuyện nghĩ học là vừa. Muốn học thêm nữa, ba cũng không có tiền gởi hàng tháng. Ba thấy đi học không ích lợi gì hết, mấy năm nay.

Tôi đáp thật tình :

 -Coi vậy cũng ích lợi về văn chương Việt Nam và thế giới. Mình biết nhiều điều hơn hồi ở bậc tiểu học, chữ Pháp giúp cho mình thấy chân trời quá rộng, tùy theo quyển sách mình đọc và mình hiểu.

-Mầy thí dụ cho tao nghe .

Thật là khó tìm một vài thí dụ.. Hồi lâu, tôi cố trả lời :

-Nhà văn Pháp nọ, Anatole France, được trích văn làm bài học trong lớp ghi lại rằng con đường mà học trò mỗi buổi sáng đi trước khi đến trường là bài học về cuộc sống.Học trò thấy nào xe cộ, người bán thức ăn,những món quà vặt...ai ai cũng góp phần cho xã hội.Và học trò đã đi tung tăng ngang qua công viên cây xanh to rộng, nơi chưng bày nhiều pho tượng đá xinh đẹp. Lớn lên,người học trò năm xưa trở thành nhà văn Anatole France. Hai chục năm qua,tác giả đã đi được phân nửa đường đời,trời vẫn như xưa, đất cũng như xưa, chỉ thiếu bóng dáng cậu học sinh là mình đây tươi trẻ,thuở nào.Tác giả ao ước đứa con trai của mình cũng hiền lành, lạc quan như cha nó ngày nào.

Nghĩ đến đó,tôi giựt mình, cúi mặt.Cha tôi mỉm cười, nụ cười hiền lành của một người lão thành:
 -Tao có đi học hồi nào đâu mà viết văn tả lại cho mầy đọc.Họa chăng mầy viết lại cho con mầy Hồi đó,rừng rậm vùng U Minh,không bao nhiêu căn chòi.

Không muốn xin lỗi cha, tôi nhớ, theo lời kể lại thì cha đã tự học chữ quốc ngữ rất khó khăn. Mãi đến sau nầy, ông viết chữ khá to, bỏ dấu kỷ lưỡng,quanh quẩn viết vài chữ như tỉnh Rạch Giá,làng Sóc Sơn,làng Ðông Thái,giấy còn dư thì ông cứ ký tên nhiều kiểu,chữ tháo, gạch đít ngắn hoặc dài, xem chữ ký như là tín hiệu biểu lộ nhân cách của mình.
Thế là xong cuộc đời nhà trường, nhà nước còn nuội cơm, ngu dại gì mình không ăn.

Về nhà sớm, ích lợi gì. Ở Cần Thơ, nhiều người bạn tốt, có sách báo đọc.Sách từ Hà Nội đưa vào khá nhiều, in trên giấy bản đen đúa, giá khá cao. Mấy đứa bạn yêu sách, nhờ gia đình khá giả đã chịu khó mua.Những người bạn mà chắc không bao giờ mình còn gặp được trên cõi đời.
Ngỡ rằng thực dân Pháp chừng vài tháng nữa sẽ bị lật đổ nhưng không phải vậy.
 
Mùa khô  2001