Sơn Nam
HỒI KÝ SƠN NAM - tập 1
TỪ U MINH ÐẾN CẦN THƠ
Chương
3
Sau
khi thi đậu vào trường công lập Cần Thơ,
tôi phải về U Minh. Khó xử cho tôi và cũng là sự
hoang mang cho cha mẹ.Tôi được đứng vào
hạng 19 hoặc 20 gì đó, qua cuộc thi tuyển.
Ðược học bổng hay không? Trên lý thuyết,chỉ
10 người đứng đầu hưởng học
bổng, thêm đôi người được phân nữa
học bổng. Như vậy là đã thua cuộc.Vài
người lớn tuổi bảo rằng còn điều
tra lại, những đứa đậu cao có thể là
con nhà giàu 12 hoặc 13 thì có thể hy vọng, nhưng
hạng 20 thì quá xa. Ðành trở về quê chờ xem, cho
khỏi tốn tiền ở trọ. Cha mẹ cho tôi
học để lấy bằng cấp làm sinh kế,
chớ đâu phải học để bàn chuyện chính
trị, hoặc quan sát “thiên văn địa lý”. Dè
đâu,hơn tháng sau, nhà trường gởi về quê tôi
cư ngụ một tập hồ sơ, hỏi về gia
cảnh giàu nghèo và đồng thời yêu cầu ngày
tựu trường, tôi phải chuẩn bị sẵn 6
bộ quần áo bà ba trắng,mền, 2 bộ Âu phục,2
cà vạt,2 đôi giày bố kiểu Bata, 4 khăn lau
mặt, 6 khăn mù soa,vân vân...thêm nào bàn chải đánh
răng, khăn tắm.Thật là quá mức,tìm đâu ra
tiền? Bấy giờ, một giạ lúa (20
kílô)tương đương một mét vải dệt
với bông vải;nhập từ Singapo. Cái hồ sơ
học bổng của tôi gởi về quận An Biên
đã gây dư luận tốt, các viên thư ký gặp
hương chức làng cho rằng tôi là một “nhân tài
hiếm có” của vùng U Minh nầy. Tôi nhớ mãi bầu
không khí của chợ Cần Thơ sống cực mà làm
mở rộng tầm nhìn. Lại xảy ra chuyện
bực dọc cho cha mẹ. Sau khi đi tận tỉnh
lỵ để dọ hỏi giá cả của hai đôi
giày bố trắng,thêm cái rương,cái mền,cha tôi
về,không chần chừ gì cả :
-Phải đem cầm bộ
lư và chân đèn trên bàn thờ ông bà ! Sau nầy chuộc
lại, tiền lời khá rẻ vì là tiệm của nhà
nước lập ra.
Bà
con dòng họ nhốn nháo lên. Ðó là món thờ cúng do ông
nội tôi đã mất, để lại.Cha tôi là
người giữ phần hương hoả, chớ
không được xem đó là của riêng để
đem cầm cố. Cha tôi,từ lâu được anh em
uỷ quyền giữ hương hoả, cứ lặng
thinh, hồi lâu mới trả lời:
-Ðâu phải tôi uống rượu, cờ bạc. Ðây
là người dòng họ được hưởng
của ông
bà. Con tôi là đứa cháu nội.Chẳng
lẽ giữ bộ lư hương nầy để
rồi con cháu phải sống với cây tràm,cây trâm
bầu,lặn hụp bắt cá lóc?Hơn nữa bà con mình
có nghe gì chưa?Bộ lư ở đình làng X mới
đây bị ăn trộm rinh mất.Chẳng lẽ dân
làng đó bất hiếu với ông thần. Thời
buổi nầy rồi !
Mấy tiếng “thời buổi nầy rồ”mà tôi
chẳng rõ hết nghĩa gợi lại chuyện qua sông
Hậu, trên phà và lời của bạn bè ở Cần
Thơ. Chẳng lẽ ba tôi lúc nầy lại tham gia vào
chuyện “quốc sự”,nhận ra một viễn
cảnh nào đó, khác hẳn với lúc thực dân còn
mạnh mà giấc mơ của đại đa số
thanh niên trung lưu là đậu bằng cấp để
làm công chức? Tôi chống chiếc xuồng nhỏ,quanh
khu rừng tràm, nói là dạo quanh nhưng kỳ thật là
du ngọan theo bề dài khu rừng, gọi “rừng
cấm”vì nhà nước đang bảo quản vì “quyền
lợi nhà nước”.Rừng có nhiều con kinh nhỏ
chảy xuyên qua, đi quanh về tắt,rải rác
nhiều căn chòi của những người mang lý
lịch mơ hồ từ phía Cần Thơ,Long Xuyên
đến tạm trú để bắt cá, đốn
củi lậu thuế.Nơi ven rừng phía Nam,chổ cây
xoài rừng và đìa lạn,hiểu là ao nuôi cá, lâu ngày không
nạo vét lên đã cạn,hai ba chàng trai đang đào
xới mô đất bỗng gọi tôi:
-Cậu ba, xin chào cậu ba!
Tôi
đến gần, họ là người chòm xóm, sống
với nghề bắt rắn, bắt trăn. Họ khen
ngợi tôi đã đi học xa,tận Cần Thơ,làm
hãnh diện cho khu rừng nầy.Tôi hỏi thì họ
rỉ tai:
-Bòn vàng của vua chúa thời
xưa để lại.Hy vọng tràn trề
Quả
thật,họ đã khai quật mộ mô đất khá cao,
cuốc xẻng dựng vào gốc cây xoài.Nhìn xuống
hồ,thấy nước đen lỏng bỏng,
đất vừa xới lên còn xông mùi ẩm
ướt,nồng nặc.Họ giải thích rằng
những đất cao ráo khác thường ở rừng
nầy thường là mồ mã của người vô danh
từ ngàn năm ,nào Chà Và,Mã Lai,Khơme,hoặc Việt
Nam.Bằng cớ là dưới lỗ hổng mà họ
vừa đào thấy có mớ tóc dài và bầy cá trê vây
quanh.Cá trê ăn thịt người.Hoặc là tóc của
con người, chôn lâu đời lại hóa ra cá trê như
lời đồn đại.
Tôi
thấy chưa tin, một cậu nói :
-Cậu ba đi học xa xứ,
biết nhiều chuyện đời, vậy xin hỏi
cậu biết Thiên linh chuỗi?
Dĩ
nhiên,tôi biết. Lâu lắm rồi,thỉnh thoảng
người nào đó nhận được lá thư,ghi
vài câu cách ngôn,hoặc chuyện thất thiệt nào
đó.Người nhận được phải sao y
bản chánh khoảng 20 bản,rồi gởi cho
người quen hoặc chưa quen.Cuối thư,bảo
là ai không chịu sao y thì bị Thượng đế
trừng phạt,còn như sao y thì sẽ được
hưởng phước,tai qua nạn khỏi.
Tôi
đáp :
-Thiên linh chuỗi mà người ta
gởi đến nói chuyện gì?
Chàng
trai nọ, nói giọng thật thà
-Không biết đọc, không nhà
cửa thì ai gởi cho,tôi không được
biết.Một người trong xóm nói rằng trong đó
chỉ ghi một câu thôi: “Ở núi Bà Ðen,Tây Ninh,ngày mùng 7
tháng giêng,có một con heo bị trời đánh, hoá ra
cục đá. “Ai tin thì tin, không tin thì thôi
Chuyện
đào đất tìm kho tàng, mớ tóc trong quan tài lâu ngày hoá
ra cá trê,con heo hoá đá...phải chăng là kiểu loan tin
của nhóm nào đó.Tôi cười thầm.Về
nhà,chợt nghe tiếng heo kêu eng éc, đúng là con heo tơ mà
mẹ tôi đang nuôi đã bị nhốt trong cái giỏ
tre, người lái heo khiêng nhẹ nhàng, mẹ tôi đi theo
sau, lấy tay chùi nước mắt.
Ghe
heo đã đi, tôi ngậm ngùi hỏi :
-Má
buồn làm chi dữ vậy?
-Thà
rằng nuôi đúng tạ mà bán, ít buồn hơn.Con heo
nầy mới bốn tháng, đang mập, nuôi thêm
vài tháng nữa thì giá cao
hơn.Tội nghiệp nó cũng tội nghiệp cho má.
Phải
bán con heo tơ để lo đồ đạc cho tôi
đi học, gần ngày tựu trường
rồi...Một hôm,ba tôi ngồi hút thuốc một mình
tới nữa khuya.Tôi thức giấc, đến uống
nước trà. Ba tôi nói,bình thản:
-Ba thấy cuộc đời không phải như
vầy hoài.Tụi Nhật Bổn lên phía U Minh
Thượng,xa lắm, đưa tiền cho dân phá rừng
để trồng đu đủ dầu, nói rằng
để lấy hột đu đủ chế biến
dầu nhớt dùng cho máy bay. Ba hồ nghi tụi nó dọ
thám rồi làm cái sân máy bay.Nghe nói hai ba thằng lính Nhật,
thêm đứa làm quan Hai đi tới đi li,chụp
hình.Tụi mật thám của Tây đi theo, xua đuổi
không cho dân mình lại gần.
Nghe
nói còn nhiều người đi theo nó,mặt mày hung
tợn lắm.Nó hưá sẽ đưa tiền để
phá rừng.
Nên đi Cần Thơ gấp.Tôi mong đến ngày tựu
trường.Cha tôi ra tận chợ Rạch Giá,vác cái
rương bằng mây,sợ tốn tiền đi xe
kéo.Thái độ tư tin khiến tôi mạnh dạn
hơn,dầu sao đi nữa;mình cũng đã ở
Cần Thơ được gần một năm
rồi.Ba tôi hãnh diện, nói chuyện với số học
sinh cùng lên xe đò.Nhiều năm,cả tỉnh Rạch
Giá không một ai đậu vào trường công,huống
chi lại được học bổng ! Phần lớn
học sinh cùng đi chuyến xe với tôi là con nhà khá
giả, họ học trường tư thục.Tỉnh
Hà Tiên nhỏ bé,nhiều năm liên tục không một
đứa nào đậu vào trường công.
Ðến
Cần Thơ ngủ tại nhà mà tôi đã trọ, tôi
vẫn chưa yên tâm. Ðến hôm sau, khi nạp cái hồ
sơ được học bổng cho văn phòng, tôi
như bị sét đánh.Chỉ được cấp phân
nữa học bổng mà thôi ! Sáng, tự lo ăn sáng,
đến trường vào lớp, trưa được
ở lại ăn cơm,tan buổi học chiều là
phải về nhà ở ngoài.Viên thư ký của nhà
trường mĩm cười :
-Ráng học, rồi sẽ
được ở nội trú “trăm phần
trăm”.Mấy đứa đậu cao lắm khi là con nhà
giàu, không nhận chế độ học bổng.
Chừng đó sẽ “đôn” lên.Chờ 6 tháng.
Học
vời nhiều giáo sư, chia ra bộ môn rõ rệt, bài
giảng toàn bằng tiếng Pháp.Một hai “bà đầm”
trực tiếp dạy Pháp văn cho mấy lớp dệ
tam, đệ tứ, hai năm chót chuẩn bị thi
lấy bằng Trung học, gọi nôm na là bằng “đíp
lôm”. Khôi hài nhất là giờ ôn bài tự do,lại cấm
đọc sách chữ việt,hễ muốn thì phải
trình với vị giáo sư Việt văn để xin
duyệt cho phép đọc.Tôi hiểu là muốn cấm các
tựa sách mang tính chính trị, trực tiếp hoặc gián
tiếp chống thực dân.Thỉnh thoảng,các vị
giám thị cũng bắt gặp vài quyển,cảnh cáo
hoặc đưa lên hội đồng kỷ
luật,học sinh có thể bị đuổi, mặc
dầu các sách ấy đã bán tự do ở hiệu sách
ngoài chợ.
Học
được một tháng,tôi được vị giáo
sư Pháp văn gọi lên bục giảng để khen
ngợi về bài luận văn, đại khái lấy
đầu đề là Mùa gặt lúa.Tuần trước
vị nầy khuyên học sinh nên tả thật,ghi lại
sự kiện và tình cảm thật.Tôi đã tả vụ
gặt lúa ở ven rừng, gần nhà, hồi ở U Minh.
Phá rừng cấy lúa,vì vậy trong thưả ruộng còn
lởm chởm những gốc cây chừa lại,cao
khoảng 50 xăngtimét, trên đó sẽ treo những bó lúa
vừa gặt xong gom nhóp lại. Chim trời bay
lượn, đủ loại vì gần biển
dưới chân người gặt thỉnh thoảng
gặp rùa, rắn, lươn đang cựa quậy.
Muỗi vo ve, mặc dầu đang giữ ban ngày.
Người gặt đứng cô đơn,rải rác phía
xa,vài người cũng gặt với tiếng ca Vọng
cổ nghe thoáng hơi buồn.Tùy ý,ai thấy mệt thì
về. Cảnh tượng nầy khác với ruộng vùng
Cần Thơ, nơi dân đông, năm bảy người
gom lại, đứng gần mà gặt, trông vui vẻ, tha
hồ trò chuyện,kiểu vần công, đổi công.
Ðể
kết luận tôi cho người làm ruộng ở xứ
U Minh là những “anh hùng vô danh”.
Về
sử học, dạy lịch sử Pháp và Việt, nhờ
đọc sách báo ngoài lớp, tôi ghi vào bài học những
tình tiết rườm rà,vị giắo sư dạy
sử ngạc nhiên,khen ngợi. Vị nầy đáng kính,
ông Nguyễn Thượng Tư.Lúc giảng bài về
Nguyễn Tri Phương nhịn ăn, không chịu cho
thực dân băng bó thương tích, ông như rơm
rớm nước mắt. Cũng như trường
hợp Hoàng Diệu thắt cổ tự tử.
Buổi chiều,học sinh được giải
trí, đá banh (bóng) trong sân to rộng của nhà
trường,lại còn nơi dành cho bóng chuyền,bóng
rổ. Nhưng một số đông thích âm nhạc,
tập đàn hát những bản ăn Pháp phần lớn ca
ngợi tình yêu trai gái của nhạc sĩ đang ăn
khách là Tino Rossi. Nhiều học sinh dạo đàn
măngđôlin hoặc ghita.Trong khi ấy, nhiều cậu
mang đàn ghita, kiểu phím lõm để đàn Vọng
cổ,có bạn tâm giao ca nghe mùi mẫn.Tên tổng giám
thị, người Ấn Ðộ quốc tịch Pháp
nổi danh nghiêm khắc đứng nghe, trên nguyên
tắc,hắn không được quyền cấm,
nhưng lời lẽ bài hát nói lên những gì hắn không
hiểu;Hắn cười mỉa mai,cho đó là thứ
nhạc du dương lạc hậu,yêu cầu
người chơi dịch ra tiếng Pháp vài đoạn.
Một học sinh nghiêm giọng :
-Ðây
là nhạc dân tộc,lời lẽ lãng mạn,không dịch
được rõ nghĩa vì Ðông phương khác với Tây
phương.Thí dụ như Tây phương ôm nhau khiêu
vũ trước đám đông, còn Ðông phương thì nhìn
mây bay,nghe gío thổi mà nhớ ông bà xưa, đời vua
Tự Ðức, khi chưa mất nước
Tên
giám thị hơi giận
-Nên cẩn thận!
Anh bạn đang đàn Vọng
cổ trợn mắt :
-Cha tôi là đại điền
chủ,là hội đồng quản hạt của nhà
nước thuộc địa Pháp, được phép
sắm súng đề phòng ăn cướp, có huy
chương canh nông của Pháp, huy chương Vàng của
vua Bảo Ðại,huy chương Ðồng của vua Sovath
Monivong nước Cam bốt.
Khi
tên giám thị bẽn lẽn đi khuất, anh bạn
cười giòn
-Nó là thằng dân mất
nước, ở cảng Bom Bay, Ấn Ðộ, nịnh Tây
rồi qua đây làm trời.Tao nói dóc
cho
nó ngán chơi.
Ngồi
chơi buổi chiều,tôi còn nghe chuyện vài người
bạn ở lớp trên đang bí mật ra báo,làm báo bí
mật thì nhất định bị đuổi.Mấy anh
học cấp trên chuyền báo cho nhau,in xu xoa (thạch),chưa
dám cho tụi con nít mới vô trường như bọn tôi
xem. Sợ đổ bể.
Cuối
niên học, được cấp học bổng trọn
vẹn, tôi về quê,cha mẹ vui mừng khôn
xiết.Quần áo khỏi sắm thêm.Tuy khiêm tốn
nhưng mẹ tôi hăng hái bơi xuồng, xuống xóm
đình,nơi quần cư quan trọng nhất của
làng, khoe rằng tôi được học bổng, vài
năm nữa nhất định sẽ được làm
thấy thông,thầy ký.Về nhà,
má tôi nói trong bữa ăn
-Nó
còn nhỏ tuổi, đang đi học vậy mà bà
hương chủ nói giởn rằng nếu đồng ý
thì bà sẽ gả con gái cho.
Ba
tôi cứ khẳng định rằng phải học “ba
cái chữ nghĩa” rồi tính sau. Cỡ nầy ở
đâu coi cũng “nhộn”
Nhộn là tiếng mơ hồ, khó hiểu, nhưng tôi
hiểu rằng “nhộn” trong bối cảnh xã hội
bấy giờ là sắp xảy ra biến cố, cũng
như đời sống đang yên lành chợt xảy ra
dịch tễ,như thổ tả, giết chục
người trong đôi ngày, không thầy nào trị
được. Ðến ven rừng dạo chơi,gặp
mấy đứa thanh niên lớn tuổi hơn mời uống
rượu đế,chúng nó bảo với tôi :
-Sớm muộn gì, tụi nầy
cũng...làm ăn cướp!
-Súng đạn đâu? Coi chừng
Tây bắt
-Con ông cai tổng B. đứng ra
lập đảng cướp, ai dám đụng. Ðó là
cậu Bảy, tính chuyện ăn cướp “làm nghiã
hiệp”, lấy tài sản nhà giàu chia cho nhà nghèo... Ông cai
tổng có súng, bọn lính kín tới đây muốn bắt
ai cũng phải hỏi ổng. Ổng đi Sài Gòn
thăm bà con rồi trở về,mặt mày nhăn nhó,gom
vàng bạc,lớp thì đem chôn sau vườn
dưà,lớp thì gởi ngoài chợ Rạch Giá.Cậu
Bảy,con trai ông cai tổng đã lanh tay ăn cắp khẩu
súng trường của nhà nước phát cho,giấu trên
ngọn cây dừa. Ði theo cậu Bảy làm ăn
cướp thì ai dám đụng tới mình.Vả lại
cậu Bảy thề chỉ ăn cướp ở
quận khác chớ tuyệt nhiên không khuấy phá làng mình. Ðã
đánh một trận rồi, bên Giồng Riềng.Tụi
nầy ăn nhậu no nê, say sưa be bét,muốn mang
bịnh.
Không
bao giờ đời nay mà còn những người khờ
khạo đi làm nghĩa hiệp. Bằng cớ là không nghe
bọn trẻ nầy nói tài sản cướp giựt
được đã đem phân phát cho ai.
Về
nhà,tôi đọc mấy tờ báo rách,dường như là
Tiểu thuyết thứ Bảy hoặc báo chí chi đó
lượm lặt từ Cần Thơ.Tôi thích và khâm
phục tài năng của nhà văn Nguy-en Hồng,trong
truyện ngắn nọ mô tả cảnh gia đình nghèo,ban
chiều mẹ đem cái nồi ra,rang mấy hột
bắp,bắp nổ tung vỏ trắng như bông,mẹ
con quây quần lại mà ăn,vui vẻ lạ thường.Lại
còn chuyện anh đánh xe ngựa chở khách,vất vả
nhưng lạc quan,hành khách ít,nhưng đành lên xe,anh
quất roi,xe lăn bánh trong cảnh hoáng hôn, “Chuyến xe
cuối cùng về Ðồ Sơn.”Tiếp cận với
truyện Kiều, đọc qua:
- Rằng nghe nổi trên cầm đài,
Nước
non luống những lắng tai Chung kỳ
Ðơn
giản mà sâu sắc, 14 chữ vượt lên cao,
đến nơi cao nhất của tâm linh,bao quát cả
không gian, thời gian.
Câu
thơ thì hay, nhưng không khuây khỏa được tâm
hồn tôi.Linh tính như báo trước một cơn giông
tố sắp đến, một cơn giông tố cần
thiết.Phải tìm một trật tự mới kiểu
khác.Rừng U Minh mà ông bà cư gụ bấy lâu nay chẳng
lẽ cứ mờ mịt,buổi chiều, ăn cơm
tạm no rồi thì đốt lên bếp un cho tan muỗi,
chờ lát nữa ngủ.Thiếu thông tin chính xác,thiếu
sách báo,nếu có thì chẳng mấy ai đọc,chưa nói
đến hiểu,muốn hiểu ít ra cũng biết
mơ hồ về bản đồ thế giới.Giá sinh
hoạt mỗi lúc mỗi cao, thêm đồng tiền càng
ngày càng khó kiếm khiến ai nấy lo quanh quẩn.
Ðến như dịch sốt rét đã giảm từ lâu
lại bộc phát, thuốc kí ninh nếu dám mua với giá cao
cũng chẳng thấy bán.
Ngày
tựu trường, tôi không tha thiết cho lắm,các giáo
sư như mặc xuề xòa hơn,thích nói chuyện,
đôi khi, đến giờ dạy mà vẫn còn nói
chuyện, riêng với bạn đồng nghiệp.
Tham
ông quản Bồ, ông mừng rỡ lắm, cứ khuyên
-Thuận
lợi để chống thực dân,nhưng ngày càng khó.Em
còn nhỏ quá,chưa làm gì đợc.Thấy dễ mà khó
lắm
Năm
ấy, bỗng dưng mặt bằng của trường
trung học Cần Thơ bị giải tỏa hết phân
nửa,dời qua dãy nhà dành cho trường tiểu học
nữ. Phần lớn trường trung học dành làm
trại lính tập, hiểu là lính chính qui người
Việt, đủ súng đạn,tập dượt
đàng hoàng,do vài sĩ quan Pháp và một số sĩ quan
người Việt (thường mang quốc tịch Pháp
chỉ huy ).Hằng tuần,họ diễu hành một
buổi sáng,trông uy nghi lắm.Một sĩ quan Pháp cấp
tá cỡi ngựa, cầm gươm dẫn đầu,
lính đi rập ràng theo tiếng kèn đồng.Theo sau,có
vài khẩu trọng pháo.Quả là thực dân Pháp còn
mạnh,họ muốn thị uy tại Cần Thơ,
thủ phủ miền Tây Nam Bộ.Học sinh mãi mê nhìn xem
diễu binh, quên chuyện học hành.
Nữ
học sinh tiểu học (ở ngoại trú )học ở
dãy sát bên. Hôm nọ, học sinh tiểu học ra chơi
xếp hàng hai, trông thơ mộng lắm. Ði chân
đất, áo bà ba trắng, quần đen.Vừa đi ra
khỏi lớp,vừa đọc bài thơ rập ràng, ngân
nga như bài dân ca :
Gió mây đuổi
giấc mơ màng,
Tỉnh ra thấy ánh
trăng vàng bên chăn.
Trước cửa
sổ đầy sân những bóng,
Cành lá đen lay
động dật dờ,
Một cơn gió
vội vàng qua,
Hương bay ngào
ngạt mấy tờ chuối xanh.
Gió lay động
bức mành vắng vẻ,
Muỗi bên màn se
sẽ than thân
Sâu tường rủ
rỉ âm thầm,
Nối muôn đêm,
một tiếng ân hận dài
Dế chân cỏ xiết
mài bóng tối,
Bờ lau xa quốc
gọi buồn theo
Trời khuya rạng
rỡ, đìu hiu
Thoáng nghe lọt
tiếng sáo diều trong trăng!
Nghe
hàng chục lần,tôi nhớ mãi, mỗi lần nghe càng
thấy ấm áp,tự tin.Mô tả cảnh đồng quê
đâu ở miền đồng bằng sông Hồng
nhưng quá thân thuộc,không xa lạ cho lắm mà lại
giới thiệu được bối cảnh thơ
mộng của Việt Nam cũng như của Ðông Nam Á
nhiệt đới.Có mặt đủ loại côn trùng vô
ích như muỗi ,dế ,ssâu.Cách diễn đạt như
khó hiểu “sâu tường”, “dế siết mài bóng tối”
nhưng cần gì thắc mắc để phân tích, hơi
thở của thơ bàng bạc trong môi trường,
ăn trực tiếp qua da thịt,vào xương
máu,buồn buồn như nổi “ân hận dài”. Các cô
học sinh,giáo viên vào giờ ấy chắc không lý luận
như tôi để hiểu,thả hồn vào thơ
Việt Nam là đủ rồi. Ðến nay tôi còn
nhớ,chắc sai lệch vài chữ nhưng các cô đã 70
tuổi hơn,nếu còn sống chắc cũng nhớ
thấp thoáng như tàu lá chuối khô còn vương vấn
mấy giọt mưa đầu mùa,lúc còn xanh non.Sau
nầy, được biết là thơ của Thế
Lữ, trong Mấy vần
thơ. Dạo ấy để mị dân, Nha Học
chính Ðông Pháp bày việc cải cách chương trình Việt
văn. Nhưng trễ quá rồi, cũng như để
tác động chính trị cho dân Việt và giới học
sinh, đặt thêm môn học Văn hoá Việt Nam, dịp
cho học giả Ðào Duy Anh biên soạn quyển Việt Nam văn hoá sử
cương, đến nay vẫn còn gia trị,về
cơ bản.
Vào
lớp, tôi ngồi học cầm chừng, cứ chờ
ngày chủ nhật xin phép ra chơi, ăn cơm ngoài cho
đến 8 giờ tối mới vào trường. Ði
thăm ông Bảy Ngân dưới phà, rồi thăm ông
quản Bồ người bị quản thúc.Dường
như vì bệnh già, ông tránh tiếp chuyện một cách
khó hiểu.
Lại
đọc báo lén, trong trường cấm đọc báo.
Hay tin cụ Phan Bội
Châu đã mất,tin tức đăng vài hàng nhưng may
thay,có kèm bài thơ chót của ông,nhiều hạc sinh chép
chuyền nhau, đọc tới lui đến thuộc
lòng: “Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ.Thiên hạ
tùy nhân bất thức quân?Bảy mươi tư tuổi
trót phong trần...Nay đang lúc tử thần chờ
trước cửa.Có vài ghi nhớ về sau.Chúc
phường hậu tử tiến mau.”Phường
hậu tử gồm người trẻ, trong đó có
học sinh. Lại còn lời cụ Phan phúng điếu
lấy mình: “Thiên hổ nhiên, địa hồ nhiên,tử
dĩ đồ hư...tích hung trung mai Khổng
Mạnh”.Trời làm sao, đất làm sao, chết luống
đã phần,dưới đất tiếc vùi lòng
Khổng Mạnh ! Nghe qua, thì hiểu,nhưng làm sao hiểu
hết tấm lòng của người chí sĩ quá cố.
Mãn cuộc đời bôn ba,còn được mấy
lời.Không ai đọc lớn,chỉ đọc thầm
hoặc lẩm bẩm cho mình nghe.Nét chữ in đen
đúa,thẩm thấu vào tâm chức của một thanh
niên gầy yếu mới 14 tuổi là tôi.Quên làm sao
được !
Nếu
tôi không lầm thì năm ấy bên Pháp thống chế Pête
đã được Ðức phát xít dựng lên, tiêu biểu
cho nhóm đầu hàng. Ở Ðông Dương, phe đầu
hàng Nhật cũng thắng thế.Lại có phong trào
Quốc Gia phục hưng, Pháp Việt phục
hưng,nhằm đề cao tinh thần “quốc gia
thuần túy” mà tán thành mạnh nhất là giới
điền chủ lớn tuổi,công chức, đốc
phủ sứ.Nói ra dông dài,làm phiền lòng giới trẻ
“sống vội”.Gương Nguyễn Ánh cầu viện
Pháp hồi cuối thế kỷ thứ 18 được
nêu lên.Tội nghiệp cho ông Phan Thanh Giản.Trường trung
học Cần Thơ được đổi là phan Thanh Giảng (có
chữ G)với buổi lễ tổ chức long trọng
tại sân trường,với những bài diễn
văn,giả như nước Việt Nam sắp sửa
được ban bố độc lập.Những màn
trình diễn thể dục trở thành thời
thượng.Quần cụt xanh, Áo sơ mi trắng,giày
bố trắng như một kiểu dân chủ bình
đẳng, không phân biệt giàu nghèo. Ðến như ông
Á-lịch-sơn Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) bày ra chữ
quốc ngữ,La tinh hóa,cũng đề cao là kẻ
đồng loã với bọn phát-xít ! Nhưng che giấu
làm sao được.Thực dân tự lột trần, còn
hơn lột mặt nạ,với cuộc Nam Kỳ
Khởi Nghĩa tháng 11 năm1940.Líng cảnh sát đi
đầy đường,tuần tiểu gắt gao
nhât& là về đêm,cũng về đêm,các giám thị
theo dõi học sinh nội trú,khuyên nên đi ngủ sớm,
đóng cửa sổ kín,không nên nhìn xuống
đường phố. Chuyện gì xảy ra đây?Vài hôm
sau,vừa thức dậy, học sinh được
khuyến cáo là không nên dụm lại trò chuyện,cứ
tập thể dục, đá bóng,tắm rửa sơ sài, ăn
buổi sáng. Vài học sinh đi cầu vệ sinh (bố
trí sát tường rào) vội vã đến bên tường
nhặt và đọc những mảnh giấy in nét mực
khá rõ, kiểu in phức bản với mực tím
đậm viết trên lớp xu xoa (thạch).Lính cảnh
sát từ ngoài đường vào đến lớp
học, đứng sát cửa lớp trông vào,dáo dác.Viên
hiệu trưởng đi tơi lui,lanh lẹ. Các giáo
sư thì dụm năm dụm ba, nét mặt nghiêm nghị.
Cảnh sát và giám thị ra lệnh :
-Ai
thấy giấy gì khổ nhỏ có in chữ thì đe
nộp ngay cho văn phòng ! Dường như vài học
sinh đã nộp.Một giáo sư người Việt nói
với đồng nghiệp rằng đã thấy
truyền đơn của Ðảng Cộng sản rải
trước phòng hiệu trưởng.
Vào
lớp, học trò im lặng, lát sau,viên chức “chạy
giấy”(phanton, lonton) đến từng lớp, đưa
tờ châu tri mà giáo sư đọc riêng rồi tóm tắt
rằng:Ai lưu trữ truyền đơn thì bị
đuổi,
với
hậu quả không đo lường trước
được.
Nghe
giảng bài lấy lệ, học trò nhìn ra cửa sổ,
lính tập người Việt từng tập dượt
hồi mấy tháng trước ngồi đầy xe
hơi.Trường trung học đã trở thành một
trại lính, bây giờ mới thấy rõ nét.
Buổi
chiều, học sinh cũng đá bóng, đánh bóng chuyền
nhưng uể oải.Tại sao không cho học sinh nghỉ
học cho yên ổn? Ðến ngày chủ nhật, phần
lớn xin ra ngoài,trọn ngày, 8 giờ tối trở vào
trường.Dân chợ phố cũng ăn
uống,nhưng dụm lại từng bàn,có lẽ
để thông báo với nhau chuyện,gì đã xảy
ra.Ngồi ăn gói xôi một mình trong quán,tôi thèm cà phê
đen.Không thấy mùi vị gì cả. Ðến thăm
mấy “đàn anh” để hỏi han tình hình chăng? quá
nguy hiểm cho các vị ấy. Ði rảo xem mấu bàn bida,
thấy trống vắng, chờ một anh bạn học
rủ ren.
Ngôi
nhà việc Tân An là kiểu ủy ban thị xã, có lầu và
rộng. Dân chúng qui tụ khá đông,nhưng không
được đến gần phía mặt tiền.Hai
chiếc xe nhà binh đậu từ bao giờ, trên xe nào heo,
gà,vịt, những món mà bọn lính cướp giựt lúc
đàn áp. Cậy mình là học sinh trường trung
học, mặc đồng phục trắng, thêm phù
hiệu thêu 2 chữ C.C (collège de Cần Thơ), hai
đứa tôi bước chậm rãi qua bên
đường, sát mấy chiếc xe nhà binh.Mấy bánh xe
quả thật đã cán trên máu thịt của người
khởi nghĩa,còn mấy sợi dây khá dài cũng dính
từng khúc,máu đông lại,trổ ra màu đen;Hàng
chục tên lính nai nịt gọn gàng,súng gom lại dựng
đứng, đang ăn bánh mì. Anh bạn tôi hỏi vu
vơ mấy chú lính :
-Bắn
được chừng mấy người?
Một
người lính mang quân hàm ở cánh tay cằn
nhằn :
-Hỏi
chi vậy? Mệt thấy mẹ.Hai đêm rồi không
ngủ được.
-Tại
sao bắn dân mình?
-Hỏi chi vậy? Mấy ông xáp
vô, đốt dinh chủ quận, giết lính mã tà.Bắn
chỉ thiên mấy lần mà họ cứ ào tới.
Diễn thuyết tại chợ, có một cô gái
đứng trên cái ghế cao kêu gọi “tiêu diệt
thực dân”.Dân đang nhóm chợ đã tản lạc
nhưng cô ta diễn thưyết hoài,không còn ai nghe mà
cứ rống cổ kêu gọi nầy nọ. Bắn
mấy phát không biết chết cô ta hay không?
Bạn
tôi nhìn mấy viên hạ sĩ Pháp đang hút thuốc :
-Ô-
là-la !
Bọn
Pháp khoát tay xua đuổi. Nhưng bạn tôi vẫn ung
dung :
-Très bien.Très bien ! (Tốt lắm.
Giỏi lắm)
Tối đến, vào phòng ngủ công cộng của
bọn học sinh nội trú,,tôi thấy ai nấy như
trầm lặng,nói chuyện khẽ.Còn chừng mươi
phút nữa đến giờ tắt đèn ngủ,tôi
hỏi một người bạn,kỳ kèo mượn cho
bằng được tờ truyền đơn mà hôm
trước tôi đọc quá nhanh.
Vào
cầu vệ sinh, có đèn sáng. Ở gốc tờ
truyền đơn, vẽ sơ sài một đóa hoa, vài
chiếc lá. “Hởi các bạn học sinh, những đóa
hoa của dân tộc !” Lại phân tích tình hình thế
giới, khó hiểu quá.Có nhắc đến tinh thần
tranh đấu đời bà Trưng, bà Triệu...Kết
thúc lại, kêu gọi toàn thể đồng bào nổi
dậy với lời chào quyết thắng.
Rồi
một thời gian ngắn, lại nghe tin,do các bạn
ngoại trú bảo là sẽ xử tử công khai vụ Hòn
Khoai ở mũi Cà Mau. Ðã giết được tên
quản đốc ngọn Hải Ðăng. Người
cầm đầu khởi nghĩa là thầy giáo Phan Ngọc Hiển
bị bắt, sẽ xử tử cho dân chúng xem.Hòn Khoai
thuộc về cực Nam,liên quan về khu vực an ninh
với Cần Thơ.
Hôm
ấy, như là ngày chủ nhật, một số học
sinh nội trú xin ra trường chơi. Tôi và vài
người bạn đến chứng kiến.Vào lúc
hừng sáng, đồng bào qui tụ khắ đông.Tôi
nhớ là pháp trường dựng ở sân vận
động tỉnh.Ráng chen vào nhưng khó chen.Thấy phía
trước khá đông người,có đàn bà, ông lão,
đoán chừng là thân nhân của tử tội.Lát sau,xe ôtô
đưa tới ba người,bị còng tay,dường
như đã bịt mắt sẵn. Buộc vào ba cây
trụ. Các tội nhân đi chậm rãi, tỉnh táo.Lính
sắp hàng, bồng súng lên. Một sĩ quan Pháp rút
gươm hô khẩu lệnh.Súng nổ, tội nhân ngã
gục,họ được hưởng thêm phát súng
lục “ân huệ”. Ðồng bào từ từ về, nói
chuyện rì rào.Có người bảo thầy giáo Phan Ngọc HIển là
người đứng giữa, tại pháp
trường.Người khác cằn nhằn – đa số
là vậy – nói khẻ và chửi nhanh, mơ hồ với
hai tiếng Ð.m : “Tụi nó giết dân mình.”Quả thật,
suốt ngày ấy, đi dạo phố,vào quán cơm bình
dân,toàn là tiếng cằn nhằn,than phiền.Chẳng
nghe ai nói tiếng nào nhìn nhận thực dân đã làm
một chuyện “công bình”. Một số người khác
thì thủ phận, ở nhà với vợ con và
thường ngăn cản không cho con cái đi xem, e
gặp chuyện bất trắc. Ở bót Hình cảnh
lưu động, đặc trách về an ninh chính trị
miền Tây Nam Bộ, nhiều
chuyến xe bít bùng chở người để
điều tra, từ khám Cần Thơ đưa
đến. “Lời chào khởi nghĩa” trong tờ
truyền đơn đã là hiện thực, là bài học
lớn cho tôi. Bấy lâu,tận nơi xa xôi của Tổ
quốc ta, lòng yêu nước của người dân quê,
đa số thất học,chỉ dựa vào thần
tượng Nguyễn Trung
Trực,nay có thần tượng cụ
thể là Phan Ngọc
Hiền.Yêu nước nào phải là đọc sách nghiên
cứu suông. Không thể dựa vào tư liệu mà chê khen.
Không thể lý luận khô khan, khen ba điều, chê bảy
điều kiểu “chánh khách xa-lông”.
Phải
hội nhập.
Một
anh bạn cùng lớp với tôi đã “hãnh diện”hôm
vị giáo sư Pháp văn ra đầu bài đại khái:
“Lớn lên, nh sẽ chọn nghề gì?”.Phần lớn
theo kiểu sáo mòn,cho qua buổi,làm bài với sự lựa
chọn hợp ý vị giáo sư, sẽ làm thợ mộc
để xây nhà cửa, sẽ làm ruộng, nước
Việt Nam sẽ trở thành khu vực nhiều lúa
nhất thế giới,ao ước làm y tá để
trị bịnh cho người nghèo ở chốn rừng
sâu nước độc...Nhưng anh bạn của tôi
lại viết một bài gây sửng sốt cho cả
lớp học. nh bảo rằng mình là con nhà giàu,tuy kém
hơn giới “công tử Bạc liêu”nhưng muốn gì thì
làm được nấy ! Lớn lên, không cần bằng
cấp,học vị, anh sẽ đi chơi,với
chiếc ô-tô và anh tài xế. Anh đã biết hút thuốc
thấy vui và ngày chủ nhật,anh cũng uống
rượu bia.Anh sẽ trở thành điền chủ
lớn, thừa hưởng
gia tài của cha mẹ. Sẽ dạo chơi ra Huế,
đi Hà Nội, xem điện Ăng-co rồi qua Pháp
cưới vợ người Pháp,một cô tài tử
điện ảnh, rồi ăn chơi, làm chủ một
tờ nhật báo lớn bên Pháp để hưởng cái
tự do dân chủ ở xứ đã phá ngục Bátti
năm 1789.
Anh
bạn cũng khen ngợi bọn lính Pháp, khi thấy
mấy chiếc xe quân đội đi đàn áp ở Tam
Bình về, với gà vịt , heo.
Vị
giáo sư tóm tắt bài làm của bạn tôi, giọng
mỉa mai.Học sinh lúc đầu còn che miệng, nhưng
đến phần chót thì cười ầm lên và vị
giáo sư Pháp văn cũng cười, lắc
đầu.Lúc ấy,tình cờ viên hiệu trưởng
đi ngang, ghé lại. Giáo sư ra sát cửa, nói qua lại
vài câu rồi cười.Vào lớp vị giáo sư tuyên
bố, giọng khá to :
-Gần
như lạc đề ! Nhiều điều tưởng
tượng điên khùng ! Nam Kỳ thuộc địa
của Pháp chứ không phải là nước Pháp.
Anh
bạn của tôi cười.Giáo sư trả lại bài
tác văn đã làm. Anh bạn như không chú ý,về chỗ
ngồi với bàn tay không.
Lễ
Nôen năm ấy, tôi nhớ rõ,nhà trường ra lệnh
cho học sinh nội trú không được về nhà
nghĩ dài hạn.Họ phải ở lại nhà
trường?Lệnh nầy áp dụng gắt gao cho
những ai quê quán ở Vĩnh Long,Cần Thơ (Cầu
Kè,Trà Ôn ),chợ mới (Long Xuyên ), Cao Lãnh (Sa Ðéc ). Ai
cũng hiểu đó là những khu vực đã xảy ra
khởi nghĩa, dân chúng bị giết, nhà cửa bị
đốt quá nhiều.Cũng có nghĩa là những nơi
mà quân khởi nghĩa đã đạt vài thắng
lợi,công sở bị đốt cháy, đường sá,
cầu cống bị hư hỏng. Rồi lại có tin
vùng chợ Giữa (Vĩnh Kim) thuộc Mỹ Tho bị máy
bay oanh tạc, lúc đang nhóm. Học sinh nhìn nhau,bàn
tán.Nghỉ học nhưng vẫn vào lớp riêng để
ôn bài vở.Tha hồ đọc tiểu thuyết, sách báo,
các giám thị đi tới lui cầm chừng. Buổi
chiều,ra khỏi lớp,lại rộ lên phong trào đàn
ca. Bản vọng cổ trổi lên, nhiều học sinh
tập dượt hòa tấu. Bản Vọng cổ
quả là hợp thời, với nổi buồn sâu
lắng .Buồn mà không làm ai rơi nước mắt.
Thầy
giáo Phan Ngọc
HIển, người lãnh đạo khởi nghĩa ở
Hòn Khoai bị xử tại Cần Thơ.
Hình
ảnh ấy, tên tuổi ấy lần hồi trở thành
trừu tượng, khái quát. Ðầu đội trời
,chân đạp đất là vậy.Rồi với Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, trở thành biểu tượng
cao cả, trở thành một nhân cách lớn mà những
người không biết chủ nghĩa cộng sản
cũng nhìn nhận trong thâm tâm,lắm khi không nói ra,là có
tư cách,có nhân cách.Sau ngày giải phóng 1975, cán bộ ta
cố sưu tầm tư liệu, phát hiện thêm cho
thế hệ sau biết lúc sinh thời, thầy giáo Phan Ngọc Hiển
đã hăng hái viết báo,bênh vực quyền lợi
của người dân mất nước.
Kháng
Pháp rồi chống Mỹ,bao nhiêu chiến sĩ xuất
hiện với tầm vóc ngày càng rộng lớn nhưng
chuyện thầy giáo Phan
Ngọc Hiển vẫn còn âm ỉ trong tâm
tư người địa phương với
nhiều chi tiết dễ gây xúc động.Mới
đây,cuối năm 2000, trong cuộc thi truyện
ngắn,tiểu thuyết(do NXB Trẻ và Hội Nhà Văn
TP.HCM tổ chức), một tập truyện nhan
đề Ngọn Ðèn Không
Tắt của nhà văn nữ Nguyễn Ngọc Tư
đoạt giải nhất.Ngọn đèn không tắt
kể lại chuyện của thầy giáo ở Hòn do
một nữ sĩ trẻ thuộc thế hệ sau ngày
giải phóng 1975. Cô kể một cách hồn nhiên, như
đứa cháu nội nhắc nhở kỷ niệm
xưa, gọi thầy giáo là Thầy, không có tên Phan Ngọc Hiển kèm
theo, vì kính nể,vì chẳng lầm lẩn với ai khác,
vào bối cảnh xưa. Không phải tất cả dân
dự buổi nói chuyện kỷ niệm khởi nghĩa,
nhưng có đủ lứa tuổi tham dự.Người
trong cuộc đã chết, người nghe trực
tiếp thời ấy cũng chết vì quá già.Thế
hệ trẻ chỉ mò mẫm, ráp nối với đôi chi
tiết sống động, gây bâng khuâng .Khi khởi
nghĩa thành công trên đảo mà Pháp đặt ngọn
hải đăng,Thầy rút lui và căn dặn mấy
người Việt làm công ở đảo phải
giữ ngọn hải đăng, đừng cho tắt.Về
kỷ thuật bạo động,tôi suy luận,giữ cho
hải đăng còn cháy để quân Pháp khi nhìn ra
biển, ngỡ rằng ngoài đảo không có gì xảy
ra.Nhưng ánh sáng của ngọn đèn ấy không bao
giờ tắt lại là niềm tin mãnh liệt mãi
đến mai sau.
Vài
anh bạn lúc rảnh rang lại thích ca tài tử và có sáng
kiến đem bài Tựa truyện Kiều chuyển ra
lời Vọng cổ, hát nghêu ngao.Trong Quốc văn trích diễm của Dương Quảng
Hàm đã trích bài tực nầy, Chu Mạnh Trinh đặt ra, Ðoàn Quý
dịch :
-Than
ôi, một bước phong trần, mấy phen chìm
nổi,trời tình mờ mịt,biển hận mênh mông...
Hỡi
ôi, hồn còn biết hay chăng, bóng hoàn bội
tưởng ra vào nơi Lạc phố
Hiểu
là Thúy Kiều, người đẹp đeo ngọc đã
lên cõi tiên, bất hủ.
Buổi
sáng nọ,trước giờ tập thể dục,viên
hiệu trưởng ra lịnh tập hợp học sinh
tại sân lớn.Giới thiệu vài sinh viên Ðại
học Hà Nội vào, phổ biến bài hát mới, lời
tiếng Pháp,(sau này dịch là Sinh
viên hành khúc hoặc Tiếng
gọi sinh viên).Trong số sinh viên Hà Nội đến
trường Phan
Thanh GIản, tôi nghe giới thiệu nhạc
sĩ Lưu Hữu Phước, sinh quán Ô Môn,tỉnh
Cần Thơ, đã học trường Cần Thơ
nầy, đang học Ðại Học Hà Nội.Ngoài ra còn
đôi người nữa,tôi không nhớ.Lại nói thêm
rằng Lưu Hữu Phước là học sinh ưu tú nay
về thăm trường cũ. Lưu Hữu
Phước hát, đánh nhịp cho học sinh hát theo. Bài
nầy gây phấn khởi lạ lùng, học sinh
được phân phát một người một bản
để sau nầy sử dụng.
Một
sự kiện lịch sử đối với tôi là
đón tiếp vua Bảo Ðại,do chánh quyền Pháp ở Cần
Thơ tổ chức. Học sinh đóng vai chủ
động,múa điệu thể dục nhịp
nhàng,cầm cây gậy tròn, sơn màu cờ tam
sắc,quơ qua quơ lại,nghiêng mình,quì gối,
đại khái kiểu thể dục nhịp điệu
của thiếu nữ ngày nay.Vua và Hoàng hậu đến,
ai nấy phấn khởi,như dành cho thiên cảm vì
tự trong tiềm thức,mình là nước mấy ngàn
năm văn hiến mà không có ông vua thì vô duyên quá! Lính mã tà
xếp hàng rào danh dự chờ sẵn. Dân ngoài
đường, ngoài cổng ung dung đứng xem,
chắp hai tay sau mông. Vài cụ già khăn đen áo dài,che dù
đến,chắp tay xá khi vua đi ngang nhưng
động tác ấy xem như lạ.Vua còn trẻ, mập
mạp,mặc hoàng phục màu vàng,khăn vàng. Nam
Phương hoàng hậu theo sau,bén gót.Cả hai ngồi
xuống hàng ghế đầu, bên cạnh quan Pháp.Lại
có người mặc áo xanh,khăn xếp,có lẽ là
Phạm Quỳnh.Vua không nói gì cả, mĩm cười,nhìn
thẳng. Hoàng hậu cầm cây quạt,xoè ra che miệng,
nghiêm nghị nhưng trông như vui.Nói chung,dư luận
cho rằng bà Nam Phương mặt mày trông “phúc hậu”,
xứng đáng hơn... ông vua. Dụng ý của thực dân và
của bọn quân nhân Nhật đang lộng hành là
muốn tạo dư luận về kỷ cương
của “quốc gia”. Dân đứng phía xa cứ dùng tay
chỉ chỏ, phải chăng nhà vua như thấy
bực bội? Quả thật,vua chỉ là khách,xứ
nầy là thuộc địa Pháp, đến xem vì tò mò.
Ðọc báo thấy nước An Nam buổi ấy có
bản Ðăng đàn cung, một kiểu quốc thiều
nhưng nhạc ấy có trổi lên hay không, chẳng ai
biết ! Vài huấn luyện viên thể thao, do Pháp đào
tạo ở Phan Thiết
đưa về đã trình diễn, sắp hình Kim tự
tháp,lớp dưới tám người, đứng trên vai
họ là 6,là 4,là 2 người. Ðến những thanh nữ
mặc quần ngắn, sơ mi ngắn,diễu hành
rập ràng,rồi thiếu nhi.Thực dân đang suy
đồi,cố đàn áp cuộc khởi
nghĩa,dường như bỗng dưng còn dạt dào
sức sống ! Hằng tuần,học sinh diễu hành
trên đường phố Cần Thơ,ca ngợi
thống chế Pête (Pétain),Thống chế nầy thắng
Ðức hồi Ðệ nhất thế chiến
(1914-1918)với trận vécđon lừng danh lại
chịu đầu hàng quân Ðức qua trận chiến
vừa rồi,ngoan ngoãn làm tay sai.Nhưng cố giữ
thể diện qua lời ăn tiếng nói:Nước Pháp
cũng như nước Việt,thuộc địa Pháp,
cần thức tỉnh, phục hưng luân lý quốc gia
để cầu mong giữ được
nước.Thanh niên nam nữ diễu hành khắp
đường phố, đi rập ràng, phô bày thể
lực.Hát rằng: “Ngài thống chế ơi,chúng con có
mặt đây,trước mặt ngài là người
đang cứu vãn nước Pháp.Xin thề theo chân ngài
để phục vụ Tổ quốc”.Lại còn bài
tưới trẻ hơn:Một đóa hoa tươi cài
trên nón,một bài hát nở trên môi.Một con tim vui vẻ và
thành thật.Với bao nhiêu điều kiện cơ
bản ấy,chúng ta có thể tiến tới nơi xa
vời nhất của địa cầu nầy.
Lại
còn sự động viên khéo léo, đánh vào bản năng
hiếu chiến như thời còn là bộ lạc, chưa
văn minh.Thanh niên lực lưỡng xếp hàng chừng
mười chàng,viên trưởng toán chợt la lớn
bằng hai tiếng Pháp: “Chú ý.Chuẩn bị xông trận !”
Ðoàn thanh niên lập tức rùng hai gối cho thấp,hai bàn
tay nắm chặt,như hạ quyết tâm;Rồi cả
bọn la lớn,rập ràng :
-Pi,Ha,Hi
-Pi,Sơmi,Ladam.
Phải
chăng đây là tiếng động viên của bộ
lạc nào ở châu Phi, thời tiền sử. Mãi
đến nay, đọc sơ qua vài quyển sách về
văn minh cổ, tôi vẫn không hiểu.Muốn hỏi,
hỏi ai bây giờ?
Lại còn những cuộc thi khá ngoạn mục, gọi
chạy Việt dã (cross country).Họ chạy tắt theo
một lộ trình mơ hồ,chỉ biết nơi
xuất phát và điểm đến.Ai đến
trước thì thắng giải.Gay go lắm.Chạy
băng ngang qua vùng đất hoang, nơi có
đường sá, nơi sình lầy,vượt
chướng ngại vật,lắm khi phải băng qua vũng
bùn đầy gai góc,bụi rậm.Kẻ thắng cũng
như kẻ bại khi đến đích được
reo hò, nhưng mình mẩy họ ướt mem, lem luốc.
Kiểu
tập dượt quân sự chăng? Ðể khi hữu
sự thì đánh giặc. Ðánh cho ai, vì mục đích gì? Ðáng
chú ý là phong trào nầy khá hấp dẫn đối với
dân thành thị đang có khoảng trống tâm
hồn.Người xem như thích thú.Nhưng cuộc
Khởi nghĩa Nam Kỳ năm trước còn đó,
với những chiếc xe lấm máu,với người
bị bắt, xỏ nhượng, đưa lên Sài Gòn,
nhốt dưới hầm xà lan,chờ đưa ra Côn
Ðảo. Những thường dân bị bắn giết,tra
tấn dã man.Khám đường chật chội. Sau
nầy được biết thêm ở Cao Lãnh, ở Cai
Lậy xảy ra sự đàn áp bắt bớ khôn tả
xiết, nhất là Cai Lậy với đốc phủ Tâm
người “quốc gia”cũng ghê tởm,vượt
mức tưởng tượng,gọi hắn là “con hùm
xám”.Nhộn nhịp ở học đường và cơ
quan là phong trào “khỏe để phụng sự”, “Ðoàn
kết và mạnh khỏe về thể chất để
phụng sự”?.Nhưng ai đoàn kết với ai?
Mạnh khỏe để đi lính, phụng sự cái
gì?Phải chăng là cho thực dân Pháp đã lừng
khừng, đầu hàng Nhật. Singapo một cửa
khẩu và căn cứ hải quân,không quân của Anh
từ lâu đã lọt vào tay Nhật,Nhật thảo
kế hoạch lập khối Ðại Ðông Á,ra báo chữ
Việt,lại có bài ca đại khái với lời lẽ
“Ta là người Việt Nam... Á TẾ Á”. Á Tế Á là Á
châu,Anh gọi là Asia,viết theo chữ Hán.Lại có
Nghĩa sĩ đảng do người Nhật thành
lập,thủ lãnh ở Cần Thơ là người
Việt với người đẹp luôn luôn đi bên
cạnh.Vài người Nhật mang gươm,với quân
hàm,theo sau là mươi người Việt và một vài
lính Nhật mà thiên hạ bảo đó là người Trung Hoa bị bắt
đi lính ở Mãn Châu,hoặc người Mông Cổ (?).
Lại đồn rằng mấy người nầy
thuộc đảng HắcLong có quyền tiền trảm
hậu tấu (?).Thanh niên cứ hát, đi đều
bước, thêm số thanh nữ đẹp và khỏe.
Ảnh thống chế Pêtain biểu tượng của
nước Pháp “phục hưng” được trưng bày
khắp nơi. Về mặt nổi,bức tranh xã hội
như sôi động, nam nữ đang tuổi dậy thì
say sưa với lối suy nghĩ mới;phải
đẹp,mạnh khỏe về thể xác, giỏi
về thể thao,những chuyện lớn lao của
cả nước thì đã có các bực lão thành, các vị
chính khách lo rồi. Nên tuân thủ, đừng bày ra lý
luận viễn vông. Nhưng hỡi ôi,ai cũng thấy
đó chỉ là bề mặt giả tạo, mỏng manh,
lòe loẹt như bó hoa chưng bày trong bình đã nứt
trong căn nhà đang phá sản. Ai nấy lo toan, nhưng
chưa biết lo toan chuyện gì?Nhất định
sắp có việc lớn xảy ra,không tránh
được. Dưới biển, có những tảng
băng chìm,to tướng đang trôi lờ đờ.Trên
mặt biển,chim hải âu bay lượn nhưng sự
yên lặng rõ ràng là giả tạo.Thối nát từ cốt
lõi.Trong vở kịch của Sếchpia,dường như
nhan đề là Hămlét, một nhân vật đã thốt
câu lừng danh: “Có mùi gì thối rữa đang bốc lên
từ vương quốc Ðan mạch nầy”. Ðền
như thơ Lục Vân Tiên cũng được
đề cao:Trung hiếu và tiết hạnh
được nhìn qua khía cặnh là ngoan ngoãn,sống bám
theo hình thức cổ truyền.Trung với nước
Pháp, nghe lời nước Pháp đang đầu hàng;
Ðến như ca dao,ngạn ngữ của Pháp và Việt
cũng được gom góp,tuyển chọn,chứng minh
rằng văn hoá Việt và Pháp rất tương
đồng,siêng năng,ngoan ngoãn,an phận,tin vào luật
quả báo.NHưng lớp vỏ quảng cáo ấy quá mong
manh.Bối cảnh lịch sử đã khác hẳn.
Bản
Vọng cổ xem như thôn dã,chữ nghĩa mơ hồ,
xa thực tế nhưng chứng minh sự trong sáng
của văn hoá Việt.Kinh nghiệm nầy,tôi thấm
nhuần được nhờ xem qua Thi nhân Việt Nam
của Hoài Thanh và Hoài Chân. Văn nghệ là sản phẩm
đa dạng.Trong lúc bầu không khí nóng bỏng,nếu khó
tánh ta sẽ đánh giá đây là sản phẩm vọ tích
sự,cầu an,thậm chí gây tác động tiêu cực, ru
ngủ...Nhưng nghệ thuật,cụ thể là quyển
Thi Nhân Việt Nam theo tôi thấy,lúc bấy giờ quả
thật là cần thiết,với mặt chìm,tiềm
ẩn của nó.Nó chứng minh rằng người
Việt Nam, đã triển khai tài năng của
người xưa để lại,qua ca dao,qua chuyện
Kiều.Thi Nhân của thề hệ mới chịu
khó,chịu vấp váp để cạnh tranh nhau,theo
kiểu cạnh tranh lành mạnh;Thử đọc lại
vài tuyển tập thơ ca của cuối thế kỷ
19 , đầu thế kỷ 20,ta gặp nào thơ
Ðường luật,ca trù,kiểu văn chương thù
tạc,lời lẽ công phu,nắn nót, đời sau
chỉ nhớ đôi mươi bài hay.Thế kỷ 20 là
thời kỳ mở tung với ảnh hưởng sâu
đậm của Tây Phương, đẵc biệt là
văn hoá Pháp,không rei-ng về thơ ca mà cả về
kiến trúc, âm nhạc,hội họa.
Ngập ngừng mép
núi quanh co
Lưng đèo quán
dựng,mưa lò mái ngang
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu
rộng, mấy hàng mây nao
Nghe man mác, sâu láng,
dễ hiểu,rất Việt Nam
Lớp lớp mây nao
đùng núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ,
bóng chiều sa. (Huy Cận)
Hoặc:
Lời kỹ nữ
Xao xác tiếng gà
Tiếng ngà lạnh
buốt
Mắt run mờ,
kỹ nữ thấy sông trôi.
Du khách đi,
Du khách đã đi
rồi. (Xuân Diệu)
Phải
hội nhập với trào lưu mới, thời
đại của phi cơ, điện thoại, tàu
chiến.
Tôi
đã hiểu tại sao lúc gạo châu củi quế mà Thi Nhân Việt Nam bán giá cao
đã thu hút độc giả. Một cuộc tính sổ
của giai đoạn thực dân.Tôi nhớ ở
trường Trung học Cần Thơ học sinh chỉ
mua chừng mưoi cuốn, chuyền tay nhau mà đọc.
Ðọc rồi chép.Lứa trẻ luôn luôn lãng mạng, hâm
mộ cả người làm thơ.Trong Thi nhân Việt Nam
ghi tiểu sử, với ảnh, địa chỉ các nhà
thơ, vài bạn thử gởi thơ làm quen,nói chung các thi
nhân trả lời rất nhã nhặn.
Thơ
Chế Lan Viên khóc số phận người Chăm,
mới lạ mà quen thân :
Chiều hôm nay
ngồi đây trên bờ biển,
Ta lặng đếm
thử bao nhiêu thế kỷ,
Ðã trôi trong một phút
vội vàng qua.
Ta lặng nghe cả
thế giới bao la,
Tụ họp lại
trong lòng muôn hột cát
Hàn
Mặc Tử được lưu ý và mến mộ
với vài câu đơn giản mà trước ông
dường như không ai nghĩ đến:
Nhìn nắng hàng cau,
nắng mới lên…
Gió theo lối gió, mây
đường mây
Cành trúc buồn thiu,
hoa bắp lay
Thuyền ai
đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng
về kịp tối nay.
Rất
tiếc là trong tuyển tập nầy, chỗ dành cho Thâm
Tâm và Trần Huyền Trân gần như không có.Tại sao
vậy? Ðó là hai nhà thơ đắng cay với thế
sự, nhưng là điệu thảm não tích cực.
Thí
dụ như trong Ðộc hành ca,
đăng báo xuân năm ấy, phải chăng đã
nhắc đến Nam Ký khởi nghĩa 1940 qua hai câu :
Ngẩng đầu,
núi quấn mây tang,
Ngó đông lửa cháy,
nhòm Nam khói mù.
...Cố nhân ai hỡi
người xưa
Dọn đi tâm
sự, đây mưa về rừng!
Cần
Thơ là trung tâm văn hoá - hiểu theo nghĩa văn nghệ.Những
năm ấy,sẵn cơ chế về pháp lý, bèn lập Hội khuyến học Cần
Thơ với thành phần sáng lập viên là những
người đáng cho nhà nước tin cậy: bác sĩ Lê Văn Ngôn (em
học giả Lê Thọ
Xuân ),giáo sư Nguyễn Văn Kiết dạy trung học Phan Thanh Giản,thi
sĩ Trực Thần (thơ ký sở Trước bạ
)...Tổ chức buổi nói chuyện về Bùi Hữu
Nghĩa, về Cử Trị là những nhà thơ có
phần mộ ở Cần Thơ. Bùi Hữu Nghĩa
gốc ở Bình Thủy.Hai vị nầy là sĩ phu yêu
nước thời Pháp đến.Họ Bùi gốc nhà
nghèo, gia đình chài lưới, tới lui vùng rạch Cái Khế,
sau đi Biên Hòa học ở trọ nhà bà con, vợ ở
Biên Hòa là bà Nguyễn Thị Tồn. Bà nổi danh với
thành tích lớn:dám ra tận Huế kêu nài cho chồng
khỏi án tử hình vì bị viên bố chánh Trà Vinh buộc
vào tội xúi giục người dân tộc Khơme
nổi loạn. Bùi Hữu Nghĩa đã bênh vực
quyền lợi khai thác cá tôm (gọi thủy lợi
)của người Khơme địa phương. Ông Bùi
làm tuồng cải lương ra đời, Kim Thạch Kỳ Duyên như chẳng còn
tiếng vang. Ông về hưu khi Pháp đến, giữ
tiết tháo, hoạ vận bài thơ của Tôn Thọ
Tường (theo giặc),ca ngợi nghĩa quân ở
chiến khu, xem bọn theo giặc là loài cáo.
Hùm nương non
rậm, toan chờ thuở,
Cáo loại
vườn hoang thác có ngày.
Một góc cảm
thương dân nước lửa
Ðền Nam trụ
cả dễ lung lay.
Một
chi tiết:Khi lâm bệnh nặng, ông khuyên người nhà
sờ vào chân,thấy chân bắt đầu lạnh thì báo
cho ông biết.Khi người nhà bảo đã lạnh, ông
nói bình thản: “Thôi, ta đi”.Rồi tắt thở, êm
ái.Hiểu rằng ông đã tu tiên từ lâu, không chủ
động được trước tình thế
nước mất nhà tan thì ít ra khi nhắm mắt, cũng
chủ động trước số phận của cá nhân
mình.Nhớ lại trường hợp Tiên Ðiền
Nguyễn Du.Thích tiêu dao đó đây, câu cá ở biển Nam,
săn bắn trên núi Hồng, đầu đội khăn
màu vàng.Bất đắc chí vì Trịnh -Nguyễn phân tranh,
khi gần hấp hối cũng căn dặn người
nhà sờ thử cho biết đôi chân đã lạnh
chưa.
Bùi
Hữu Nghĩa có bài vị tại chùa Nam Nhã, chùa Ðạo
Minh Sư do ông lão (cũng như vị đại lão hoà
thượng trụ trì)nổi danh là Nguyễn Giác Nguyên,
một trong những lãnh tụ lừng danh của Nam
Bộ hồi phong trào Minh Tân (Duy Tân ).Minh Sư là dạng tu
tiên khổ hạnh,cơ ngơ tu hành không gọi là Tự
nhưng là Ðường. Ngoài những buổi trình diễn
thuyết về văn hoá dân tộc,hội còn mở
cuộc thi văn học.Giải nhất thuộc về
Phi Vân,với tác phẩm Ðồng
quê, gồm nhiều truyện ngắn gây ấn
tượng sâu đậm (mãi đến nay,vẫn còn
độc giả ).Những chuyện vui tươi,
gọn gàng.Bấy lâu,nhiều người nhận
định ở Nam Bộ chỉ là “văn nói”.Với
Ðồng quê của Phi Vân,ta thấy “văn nói” nào phải
lấy cái máy ghi âm để “thâu băng” rồi phát ra,viên
thơ ký đánh máy lại là xong. Ðó là một kỹ
thuật riêng, đòi hỏi tay nghề,câu nào phải
cải biên,nói theo người viết nhạc là “biến
tấu”lại,tóm gọn hoặc kéo dài ra.Chữ nghĩa
trên trang sách khó diễn đạt lại giọng điệu
hoặc bộ tịch của người nói.Về
mặt nầy,tôi thấy Phi Vân lúc bấy giờ đâu
khoảng 30 tuổi đã thành công.
So
với văn phong của Trương vĩnh Ký, Huỳnh
Tịnh Của,luôn cả Hồ Biểu Chánh, ông đã
cải tiến một bước dài với “văn nói”.
Phi
Vân (nếu tôi không lầm) là người lai Hoa, làm xã
trưởng, đã chịu thâm nhập vào dân vùng Cà Mau,
đúc kết những nét điển hình,ghi lại
những kiểu ăn nói duyên dáng của người
Việt từ miền Nam Trung
Bộ, người Hoa lai Việt đi
khẩn hoang tận vùng Cà Mau. Họ góp phần vào giọng
ăn nói đượm vẻ vui tươi nhất là hài
hước,khi khẩn hoang, cực khổ,bế tắc
những lạc quan.Thí dụ như câu hò dài,mỗi câu
đâu cũng 50 tiếng,nói bắt vần,chắc là
từ vùng Tiền Giang do dân khẩn hoang đem tới.
Lúc
Hội khuyến học hoạt động, tôi buồn
phiền vì ở Rạch Giá quê tôi có Huỳnh Mẫn
Ðạt giỏi về thơ ca.Có người trưng
bằng cớ về sự giao du thân mật giữa
Huỳnh Mẫn Ðạt và Bùi Hữu Nghĩa,và chứng minh
rằng bổn tuồng hát bội Kim Thạch Kỳ Duyên có phần đóng góp
đáng kể của họ Huỳnh.
Huỳnh
Mẫn Ðạt quê Cái Bè (tỉnh Tiền Giang ),làm chức
tuần vũ ở Hà Tiên, Pháp đánh chiếm, ông về
dưỡng nhàn ở Rạch Giá,bấy giờ tỉnh Hà
Tiên gồm luôn Rạch Giá, ăn luôn vùng mũi Cà Mau.Bên
vợ họ Huỳnh là điền chủ,nhờ vậy
mà khi hưu trí ông thỉnh thoảng đi Sài Gòn tham quan cho
biết sự đổi mới của “tân trào”. Bấy
giờ, chỉ dùng đường thủy, sắm
chiếc tam bản có mui, với ít nhất hai người
chèo, ngày đêm cực khổ, đường thủy khoảng
non 300 kilômét.
Theo
giai thoại phổ biến, thì khi đến Sài Gòn dạo
chơi, họ Huỳnh tình cờ gặp Tôn Thọ
Tường. Bấy giờ thắng thế là “Việt
gian”nhưng Tôn Thọ
Tường vội vã xuống xe song mã, với ít nhiều
mặc cảm tội lỗi, xấu hổ.
Huỳnh
Mẫn Ðạt làm bài bát cú,với những câu :
Ðã cam bít mặt cùng
trời đất,
Ðâu dám nghiêng mày với
ngựa xe.
Hớn hỡ trẻ
giong đường dặm liễu
Lơ thơ già núp
cội cây hòe.
Núp nom cũng hổ,
chào thêm hổ,
Thà ẩn non cao
chẳng muốn nghe.
Tôn
Thọ Tường vội phân trần :
Thế cuộc
đổi dời đà lắm lắm
Thiên cơ mầu
nhiệm hãy còn nhiều.
Nước non
dường ấy, tình dường ấy,
Xe ngựa bao nhiêu,
bụi bấy nhiêu.
Hăm hở nhạc
Tây hơi trổi mạnh,
Nghe qua ngùi nhớ
giọng Tiêu thiều.
Bấy
giờ,chưa mở đường xe lửa Sài Gòn
-Mỹ Tho, những kiểu tàu cuốc (xáng) chưa
đưa qua Nam Bộ hòng mở mang kênh đào nhưng Tôn Thọ
Tường dự đoán rất đúng rằng sức
mạnh của thực dân nào phải chỉ có bao nhiêu,
như đã thấy.Còn nữa và còn nữa.Năm xưa,
khi Pháp mới đến, chiếm gò Cây mai, họ Tôn
bắt đầu hợp tác với giặc,thấy
xốn xang: “Tò le kèn lạ mặt trời
chiều”.Nhưng giờ đây,họ Tôn thấy mình
quả là có lý khi theo giặc, vì giặc quả là thật
mạnh.Cũng là tiếng kèn đồng của quân
đội Pháp nhưng nó không phải là “tò le”tro trẻn
nhưng là tiếng kèn mạnh khỏe của thế
lực đang lên ! Người theo giặc vẫn nhớ,
qua tiếng kèn ấy,những bản Tiêu thiều với 3
hồi 9 chặp, dạng quốc ca của triều
đình xưa.
Lũ
học sinh trung học chúng tôi bấy giờ quả là cô
đơn và rối rắm,chẳng biết nên làm
gì.Học thêm quả là vô ích,xa vời,còn về tình hình
thế giới và trong nước thì quả là mù tịt.Làm
cách mạng kiểu nào đây? Gặp anh bạn bơi
lội giỏi từng giới thiệu tôi qua phà Cần
Thơ thì biết rằng các người chống Pháp,theo
cộng sản đáng tin cậy dường như
lần hồi dời chỗ ở vì một đôi
người ở Cầu Kè,Tam Bình bị bắt,có thể
cung khai.Anh bạn của tôi kết luận,buồn
buồn :
-Tụi
mình nhỏ quá,chưa được 15,16 tuổi,không
đủ trí tuệ và bản lĩng cho anh em tin cậy,lúc
khó khăn nầy.Dường như Pháp và Nhật đang
bắt tay nhau đàn áp.Thậm chí,người theo
đạo Cao Ðài cũng bị tình nghi.Thôi thì cứ chờ.
Thôi thử đi xem
một phiên xử án ở Tòa đại hình Cần Thơ,
cấp cao của miền Tây Nam Bộ,còn gọi Tòa áo
đỏ. Không gặp buổi xử tội nhân chính trị,
vì nghe đâu tội chính trị thì do tòa án Quân sự xử
lý sao đó. Buổi ấy,xử tội sát nhân.Tội
nghiệp vô cùng.Sát nhân với tang vật là phảng phát
cỏ, cán không uốn 90 độ so với lưỡi,
tội nhân đã “kéo cỗ”, tức là kéo lại cho
lưỡi và cán nằm theo một đường
thăng, trông như lưỡi gườm dài.Chuông reo,
chánh án,chưởng lý,toàn người Pháp, luật sư là
người Ấn mang quốc tịch Pháp. Cáo trạng dài
dòng, đọc lên toàn tiếng Pháp.Can phạm bị còng
tay, đứng cúi đầu,buồn bã, ở hàng khán
giả,dường như có thân nhân. Hơn một giờ
sau,chánh án hỏi vài câu,qua thông dịch viên.Và can phạm
trả lời,có thông dịch viên.Như vậy là công lý à?
Can phạm chẳng hiểu gì ráo để vào giờ
chót,có thể tự bào chữa.
Lúc gọi phạm nhân đến trước vành móng
ngựa, nói rõ tên họ và quốc tịch, nói tiếng
Pháp,xin tạm dịch là người nước An Nam
nhưng không phải đạt dưới sự cai
trị của vua nước An Nam ở xứ bảo
hộ Trung Kỳ.
Mà là con dân tay sai của nước Pháp ở xứ Nam
Kỳ! Tôi thấy nản, nói theo ngày nay là kiểu “buồn
nôn”. Bèn đi tìm anh bạn đồng môn để bàn tán
bâng quơ về Tôn
Thọ Tường khi gặp Huỳnh
Mẫn Ðạt tại Sài Gòn.Tôi chê họ Tôn nhưng khen
sơ sài.Anh bạn ngắt lời :
-Không
thể so sánh chê khen người của thế kỷ
trước, hồi Tây mới đến. Hoàn cảnh bây
giờ đây có khác. Ai cũng sống với thực dân
Pháp đâu từ hồi ông nội, chẳng lẽ mọi
người đều đầu hàng giặc? Nên suy
nghĩ lại trước tình hình mới.Thực dân
bắc cầu, bồi lộ, mở trường trung
học...với thuế má và mồ hôi của dân mình.
Nhưng tụi học trò như mình kém cỏi quá.
Tôi lại buồn. Học không ra học. Ðánh thực
dân là chuyện ôi thôi, khó quá.Nam Kỳ khởi nghĩa
năm trước bị dập tắt quá nhanh, thêm
người hy sinh.
Bạn
tôi nói :
-Ðọc
báo thấy kể chuyện Nhật Bổn đang chiếm
nước Tàu.Bên ấy kêu gọi “Xếp bút nghiên lên
đường tranh đấu”hoặc “Cởi áo cà sa khoác
áo chiến bào”, hoàn cảnh đó chắc còn lâu mới
xảy ra ở Cần Thơ .
Tôi rất yêu thơ vì thơ là sức mạnh âm thầm
nhưng bền bỉ,vương vấn nhiều
năm.Lòng yêu nước của tôi dính dấp cvới
htơ,môn glung,lắm khi tiêu cực. Khó đoán về con
người qua lời thơ do họ sáng tác hoặc
thơ mà họ yêu thích. Môt người bạn bỗng
thử nghiệm dạng thơ tắc tị, khó
hiểu,có lẽ ảnh hưởng của Xuân Thu Nhã
Tập đã bỏ ra một tháng để làm mấy câu
sau đây:
Lạnh nhạt mai chiều duyên cỏ sương,
Rót niềm cô tịch,
mộng cô đơn.
Mắt xanh lãnh
đạm người tay trắng,
Dù ép bên lòng quả
nhớ thương.
Tình ngại sang sông
đuối giữa dòng,
Ðành cam lấp hận
dưới chờ mong
Ngày xanh đêm
trắng buồn tơ đỏ,
Hờ hững sông
trong nắng rải hồng.
Siết tay cho chết niềm
sương cỏ
Nuốt hết muôn
đời lệ cỏ sương.
Xây nốt
trường thành muôn bóng đỏ,
Ngăn hồn
bướm dại mộng yêu đương.
Tôi
nhớ mãi vì người làm thơ nầy nhà rất nghèo,
đi học mặc áo vá nhưng học quá giỏi,nhớ
dai các bài học.Về sau, khi Cách mạng Tháng tám nổi
lên, anh ta gia nhập quân đội Vệ quốc đoàn,
chỉ huy một trung đội đánh trận Vàm Nhơn
(Cần Thơ ),hy sinh oanh liệt, đơn vị của
anh đâu chừng năm cây súng lửa, kiểu súng bắn
chim tịch thâu từ mấy vị điền chủ, vì
họ được phép sắm súng.Trong khi ấy, không ít
anh bạn đồng lớp với tôi làm thơ nghe tràn
“khẩu khí”nhưng chưa chi đã vội theo giặc,
đánh phá cách mạng rất hung hăng.Học hành cầm
chừng,chờ bã trường, sáng chủ nhật
nọ,vì không tiền dằn túi,tôi ở lại
trường để “đọc sách ngâm thơ”. Ðột
nhiên vào khoảng 7 giờ sáng, viên giám thị báo tin rằng
cha tôi đến thăm và giám thị cho phép tôi ra ngoài
chơi, trọn ngày chủ nhật.Tôi mừng thầm. Cha
tôi còn mạnh khỏe nhưng ốm yếu hơn mọi
khi, phải chăng vì ông mặc chiếc áo lãnh màu đen,
mềm mại mà khi ở nhà tôi chưa bao giờ thấy.
Áo hơi cũ, chắc là mượn của ai để
khi lên thủ phủ miền Tây nầy thiên hạ không chê
khen. Ở môi trường nầy, kiểu áo ấy rõ ràng
là trơ trẽn, chưa hài hòa, đúng ra, phải mặc
áo sơ mi trắng như bao nhiêu phụ huynh khác..Một ý
nghĩ thoáng qua giây phút.Cũng hài hòa, còn hơn là vài phụ
huynh giữ cái búi tó. Một truyện ngắn nào đó khá
cảm động đã kể lại, người
viết truyện tỏ ra tự tin và hãnh diện.
Tình
thế đất nước như vầy mà còn xúc
động, tủi thân à?Phải hãnh diện chứ.Trung
nông ở rừng U Minh xa lơ xa lắc, nghe cái tên
đất nhưng mấy ai đã đi đến?
Cha
tôi và tôi đi bên cạnh, sát lề đường.Cha tôi
bảo là tìm trường học nầy không khó vì Cần
Thơ chỉ có một trường Phan Thanh Giản mà
thôi. Cha tôi bảo là có chút ít tiền, muốn đi
dạo một vòng chợ .Nó rộng rãi, đâu có khúm núm
như chợ Rạch Giá, Long Xuyên.Trường học
nầy Tây xây cất lớn quá,hồi năm nào?
Vì
Cần Thơ quá rộng,tôi bèn gọi chiếc xe kéo, hai cha
con ngồi lên.Tôi chỉ dẫn vài dinh thự nhà lồng
chợ, ngân hàng canh nông rồi dừng lại để
uống cà phê, ăn hủ tíu. Bên cạnh quán cóc
nầy là con rạch Cần Thơ, đổ ra sông
Hậu.Tôi giải thích rằng sông Hậu nầy
đổ ra biển, phía Sóc Trăng,nhưng nếu đi
ngược lên phía tay trai của mình là phía Bắc thì
nước đổ xuống từ nước Cao Miên,Lào. Một
bên là Lào, bên kia bờ là Xiêm, ăn lên nữa tới ranh
Miến Ðiện,gặp Trung
Quốc rồi lên Tây Tạng cao ráo và to
rộng,nơi có dãy Hy Mã Lạp Sơn.
- Chừng
bao nhiêu cây số ?
-Tới
Hy Mã Lạp Sơn hơn 4 ngàn cây số.
-Xa
quá chừng,như vậy sao?Từ đây tới nhà mình
ở U Minh đã xa rồi,nhưng mới được
160 cây số.Tao nghe nói ở Tây Tạng còn nhiều
điều bí mật lắm.Thiên cơ bất khả
lậu.Nhiều người tu luyện ở xứ đó
sống vài trăm năm ,nhịn đói mà mạnh
khỏe,nhờ bùa phép,thần chú.
Rồi cha tôi nói tóm tắt rằng từ mấy tháng
qua, nhiều người ăn mặc kỳ lạ,
bới tóc, mái tóc quá dài, lắm khi quấn chung quanh cổ,
đội nón vải màu ngũ sắc,tự xưng là dân
Tây Tạng, truyền rao sắp đến lúc tận
thế, muốn được cứu rỗi thìcứ
tụng câu thần chú: Úm-ma-ni bắt-mi-hồng,tụng
mỗi đêm trước khi ngủ chừng mươi
lần...Năm nay, ít người chịu làm
ruộng,phần lớn già trẻ đều mang bịnh
sốt rét,thêm bịnh ghẻ hờm , lở lói.
Ăn
điểm tâm rồi,cha tôi đi theo mé sông, như buồn
rầu, cho biết gia đình dạo nầy túng bấn.
Tôi
nghĩ mình đã lớn khôn, buột miệng hỏi :
-Thưa
cha , như vậy là nhà túng bấn,chắc cái bộ lư
thờ không bao giờ chuộc nổi. Bộ lư đem
cầm ở tiệm ngoài Rạch Giá hồi năm trước.
Cha
nói tỉnh táo :
-Món
thờ cúng, của ông bà để lại.Làm sao đủ
tiền chuộc, cứ đôi ba tháng, mấy năm
rồi ,ba tới đóng tiền lời. Riết rồi ba
xin bán rẻ cho tiệm cầm đồ,lấy mấy
đồng bạc, ăn xài cũng hết.
Thấy tôi lặng thinh hồi lâu, ba tôi gật gù :
-Con
là đứa có hiếu, còn nhớ chuyện bộ
lư.Học hành dở dang là do thời cuộc.Thí dụ
như thi đậu thì đi làm công chức cho ai?Tụi
Tây coi bộ không còn lâu ! “Thần suy quỉ
lộng”Hương quản là người giữ trật
tự, bắt trộm cướp vậy mà từ mấy
tháng nay lại chứa chấp bọn trộm cướp,
đành rằng không phá phách làng mình nhưng lại đi phá
làng khác, bày tiệc ăn mừng ,om xòm trong xóm.
Ðối
với tôi, ba tôi khi gọi con, khi bằng mầy,trong tình
thân mật :
-Mầy
tính chuyện nghĩ học là vừa. Muốn học thêm
nữa, ba cũng không có tiền gởi hàng tháng. Ba thấy
đi học không ích lợi gì hết, mấy năm nay.
Tôi
đáp thật tình :
-Coi
vậy cũng ích lợi về văn chương Việt
Nam và thế giới. Mình biết nhiều điều
hơn hồi ở bậc tiểu học, chữ Pháp giúp
cho mình thấy chân trời quá rộng, tùy theo quyển sách
mình đọc và mình hiểu.
-Mầy
thí dụ cho tao nghe .
Thật
là khó tìm một vài thí dụ.. Hồi lâu, tôi cố trả
lời :
-Nhà
văn Pháp nọ, Anatole France, được trích văn làm
bài học trong lớp ghi lại rằng con
đường mà học trò mỗi buổi sáng đi
trước khi đến trường là bài học về
cuộc sống.Học trò thấy nào xe cộ,
người bán thức ăn,những món quà vặt...ai ai
cũng góp phần cho xã hội.Và học trò đã đi tung
tăng ngang qua công viên cây xanh to rộng, nơi chưng bày
nhiều pho tượng đá xinh đẹp. Lớn
lên,người học trò năm xưa trở thành nhà
văn Anatole France. Hai chục năm qua,tác giả đã
đi được phân nửa đường
đời,trời vẫn như xưa, đất cũng
như xưa, chỉ thiếu bóng dáng cậu học sinh là
mình đây tươi trẻ,thuở nào.Tác giả ao
ước đứa con trai của mình cũng hiền
lành, lạc quan như cha nó ngày nào.
Nghĩ
đến đó,tôi giựt mình, cúi mặt.Cha tôi mỉm
cười, nụ cười hiền lành của một
người lão thành:
-Tao có đi học hồi nào đâu mà viết văn
tả lại cho mầy đọc.Họa chăng mầy
viết lại cho con mầy Hồi đó,rừng rậm
vùng U Minh,không bao nhiêu căn chòi.
Không
muốn xin lỗi cha, tôi nhớ, theo lời kể lại
thì cha đã tự học chữ quốc ngữ rất khó
khăn. Mãi đến sau nầy, ông viết chữ khá to,
bỏ dấu kỷ lưỡng,quanh quẩn viết vài
chữ như tỉnh Rạch Giá,làng Sóc Sơn,làng Ðông
Thái,giấy còn dư thì ông cứ ký tên nhiều kiểu,chữ
tháo, gạch đít ngắn hoặc dài, xem chữ ký như
là tín hiệu biểu lộ nhân cách của mình.
Thế là xong cuộc đời nhà trường, nhà
nước còn nuội cơm, ngu dại gì mình không ăn.
Về
nhà sớm, ích lợi gì. Ở Cần Thơ, nhiều
người bạn tốt, có sách báo đọc.Sách từ
Hà Nội đưa vào khá nhiều, in trên giấy bản
đen đúa, giá khá cao. Mấy đứa bạn yêu sách,
nhờ gia đình khá giả đã chịu khó mua.Những
người bạn mà chắc không bao giờ mình còn gặp
được trên cõi đời.
Ngỡ rằng thực dân Pháp chừng vài tháng nữa
sẽ bị lật đổ nhưng không phải
vậy.
Mùa khô 2001